Võ Chân Cửu sinh năm 1952 tại Bình Định, làm thơ từ năm 1965 và làm báo dưới bút danh Hưng Văn từ sau 1975. Những năm qua anh thu mình lại giữa rừng núi Đại Lào (Lâm Đồng), và theo Nguyễn Thanh Châu cho biết sáng nay (23.12.2020) Võ Chân Cửu vừa mới ra đi. Anh ra đi bỏ lại vợ con bạn bè với nhiều thương tiếc. Bên cạnh đó anh còn những tác phẩm gởi lại đời sau:

Tinh Sương (Thi Ca, SaiGon 1972)

Đại Mộng (Nhị Khê, Sai Gon 1973)

Trường ca Quảy Đá Qua Đồng (1974)

Ngã Tư Vầng Trăng (NXB Trẻ 1990)

Trước Sau, (Thư Ấn Quán, 2011)

Ngọn Gió , (NXB Văn Học 2011)

Trường ca Quảy Đá Qua Đồng và các bài thơ chưa in thành sách.   

Thơ Võ Chân Cửu tuy còn mang âm điệu, dáng dấp xưa nhưng đã có những nét mới vừa thơ mộng vừa hằn in dấu vết thực tế được người đọc ưa thích. Sau đây để tưởng niệm một tài năng và một tình bạn thanh quý chúng tôi xin đăng lại một vài bài tiêu biểu của Võ Chân Cửu. SAO KHUÊ

chuyện hão

 

Nằm kể bao đêm chuyện hão

Nghe trăng xuống nước khua đò

Khuya khoắt sương về ướt áo

Cùng em chung bóng trăng mờ

Ôi ngàn năm xưa chẳng có

Mây còn phiêu phưởng vu vơ

Mộng ba ngàn đêm cỡi gió

Ta về đây giữa ban sơ

(Thi tập TINH SƯƠNG)

Xem thêm:   Thơ bằng hữu

 

mười năm

 

Mười năm nàng nhớ hay quên

Vầng trăng với lúm đồng tiền nghiêng chao

Ta đi mãi tận nơi nào

Tưởng khi bóng nắng buồn sao giếng trời

Mười năm nàng đã quên rồi

Ðẩy đưa chót lưỡi đầu môi lặng nhìn

 

Cây cao còn bóng ai in

Mùa thu còn tới để nhìn ra hoa.

Mười năm nàng đã quên ta

Thì thôi áo khoác thêm tà sương bay.

 

yên ả

 

Ðã trở lại bốn bề yên ả

Em có còn cho tôi nhớ thương

Ðã nhen một que mồi bếp lửa

Ươm mầm cây chim hót trong vườn

 

bài ca túp lều

Tặng Huỳnh Hữu Hạnh

 

Nhà ta xưa dại bán gỡ tôn

Về lại phố dựng túp lều mái lá

Ai hỏi đến cũng dễ tìm em ạ

Nhà ta ngay đường xe lửa – mặt tiền

 

Ðêm dầm dề cơn mưa dột triền miên

Anh chống mái che cho con khỏi ướt

Máng xối rách cũng hứng đầy lu nước

Nơi em thèm viên gạch đứng rửa chân

 

Nửa đời người lỡ đeo mộng vào thân

Nay gió núi mây trời thôi lỗi hẹn

Ðêm thức dậy vẫn không ngừng xao xuyến

Tiếng còi tàu thúc giục nỗi vu vơ.

 

Nơi túp lều ta sống trọn bài ca

Kẻ nối khố đắc thời nay ngoảnh mặt

Bạn hành khất chiều mang đờn đến hát

Giở nắp vung chia chén gạo vơi đầy.

 

Dựng túp lều ta còn đủ hai tay

Ðiều may mắn đâu dễ gì có được

Cũng có lúc anh mơ mình chức tước

Ðể thẹn thùng giấu mặt tựa vai em.

 

Nơi túp lều ta đã sống bình yên

Muối dưa cải đùa câu: sông có lúc

Niềm ảo diệu chỉ mình em hay được

Khi gió lùa vách trống dội lòng thơ.

nhớ

Xem thêm:   Phan Xuân Sinh

 

Những lối hẻm ngoằn ngoèo anh nhớ

Nhà nhô ngang mái thiếc đọng tàn trăng

Khuya nhịp võng xuống câu xề vọng cổ

Những người say lao đảo vịn hiên tường

 

Ðây khói bếp của nhà ai dậy sớm

Mùi cao su nhắc nhở chốn thị thành

Xích lô máy khạc màn đêm khởi động

Tiếng ho khàn báo hiệu lúc tàn canh

 

Căn gác nhỏ dưới tàn cây vú sữa

Mùa lá khô lật sấp những trang đời

Xấp báo cũ biến ra tiền bữa chợ

Nhịp thơ đi như tiếng vọng luân hồi

 

Em có đến khi chiều hoang nắng xế

Mưa lặng chìm lấm tấm giọt mồ hôi

Làn tóc mỏng vén khung trời bỡ ngỡ

Tiếng guốc mòn bay ảo ảnh chơi vơi

 

Ðời xa lắc giang hồ ai vương nợ

Ấn phiêu du mãi đậm nét tim gầy

Lối hẻm chật khơi nguồn theo trí nhớ

Tháng năm dài rớt rụng dưới hai tay

 

Em có đến khi chiều hoang khép cửa

Chẳng còn chi đáy cốc hiện đêm về

Mây với núi bốn phương trời tao ngộ

Ánh trăng nhòa ánh điện dõi trang thơ.

(1989)

 

miền lục trúc

 

Ði qua miền lục trúc

Trời im vờn mây đục

Mấy túp lều con con

Tiếng chim trong lá rúc

Gió dậy lao xao vờn

Âm thanh ngắt từng khúc

Muốn vô hỏi rõ nguồn

Bóng tà dương đã giục…