Tháng Bảy rồi đó.

Tháng Bảy mưa ngâu. Mưa của đất trời đang rơi trên cõi người. Hôm nay, nhân mùa trai đàn chẩn tế, dưới bầu trời tháng Bảy, nên chăng chúng ta cùng đọc lại đôi đoạn đôi khúc trong Chiêu Hồn Ca Thập Loại Chúng Sinh (CHCTLCS) của Nguyễn Du. Đọc và nhìn lại những chặng đường u minh lịch sử vừa qua và những mảnh đời tan tác dưới trời mưa ngâu.

Với CHCTLCS, một lần nọ Nguyễn Du đã viết mở đầu cho bản trường ca bi thảm và nhân ái này: Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt / Toát hơi may lạnh buốt xương khô / Não lòng thay, buổi chiều thu / Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàngÐường bạch dương bóng chiều man mác / Ngọn đường lê lác đác mưa sa / Lòng nào lòng chẳng thiết tha / Cõi dương còn thế nữa là cõi âm… Và lập tức, cánh cửa thiên thu mở ra – cõi trường dạ tối tăm trời đất… – những hồn oan phiêu bạt trở về tìm ánh lửa nhân gian.

Chưa bao giờ chúng ta thấy văn chương của Nguyễn Du – như ở đây, dù đối tượng là những linh hồn của cõi âm – lại gần với đời sống đến thế. Tố Như tiên sinh vẽ ra trước mắt chúng ta khuôn mặt u buồn của thập loại chúng sinh – nói là chúng sinh nhưng ở đây chỉ thấy những mặt người, và gọi là thập loại nhưng có đến mười mấy hạng người trong xã hội được gọi hồn về.

Xem thêm:   Mơ về Mùa Xuân Pra-ha

Với chúng ta, cộng đồng người Việt đã trải qua những biến động kinh hoàng của lịch sử và chiến tranh tàn khốc, để rồi phải bỏ nước ra đi tìm đường sống, đọc lại CHCTLCS của Nguyễn Du, chúng ta đặc biệt xót thương những cô hồn xiêu tán. Trước hết là những người lập chí cao – chí những lăm cất gánh non sông… – nhưng gặp “thế khuất vận cùng, mưa sa ngói lở” để rồi “máu tươi lai láng xương khô rụng rời…”

Với chúng ta ngày hôm nay, đó là những vị tướng như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng… đã vị quốc vong thân. Tiếp đến là những cấp chỉ huy trong quân ngũ – Khi thất thế tên rơi đạn lạc / Bãi sa trường thịt nát máu rơi… Và rồi thời gian lạnh lùng trôi qua – Mênh mông góc bể chân trời / Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào? Hơn thế nữa, xót thương biết mấy, vong hồn của những chiến sĩ vô danh trong cuộc chiến dài gần hai chục năm ở quê nhà. Những người từng “Nước khe cơm vắt gian nan / Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời / Buổi chiến trận mạng người như rác / Phận đã đành đạn lạc tên rơi / Lập lòe ngọn lửa ma trơi / Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!..”

Mặt khác, CHCTLCS của Nguyễn Du còn nhắc tới số phận oan khốc của những người tù: “Cũng có kẻ mắc đường tù rạc / Gửi mình vào chiếu rách một manh …” Ðọc đến đây, chúng ta không thể nào không thương tưởng tới hàng trăm ngàn anh em của chúng ta sau 1975 đã phải chịu cảnh ngục tù Cộng Sản và nhiều người đã gởi nắm xương tàn nơi ven rừng, dốc núi. Cũng vậy, khi Nguyễn Du tả những hồn oan chết sông chết biển – Cũng có kẻ vào sông ra bể / Cánh buồm mây chạy xế gió đông / Gặp cơn giông tố giữa dòng / Ðem thân chôn rấp vào lòng kình nghê – chúng ta nghĩ tới hàng trăm ngàn người chạy trốn CS, chấp nhận cái chết giữa muôn trùng sóng dữ… Trong mùa trai đàn, cúng tế này, xin dâng tuần nhang, bát nước cho những hồn u khốc ấy.

Xem thêm:   Sài Gòn của tôi xưa

Quả thật CHCTLCS đã gợi ở chúng ta biết bao tưởng nhớ và xót thương. Và thời tiết tháng Bảy mưa ngâu cũng là thời điểm để trở về với quá khứ bi thương của dân tộc, nghĩ tới những anh em đồng đội đã nằm xuống trên khắp nẻo đường đất nước và trong các trại tù CS, nghĩ tới những thuyền nhân đã đắm chìm ở Biển Ðông…

Làm sao quên được. Vâng, đúng vậy. Ngày hôm nay, chúng ta được sống ổn định sung túc trên xứ sở tự do này, chúng ta không thể nào tự cho phép mình quên anh em đồng đội và đồng bào ruột thịt. Chính quá khứ đã làm nên hiện tại. Quên quá khứ là quên hồn, quên xác. Chúng ta lẽ nào quên.

TN

Dallas