LGT: “Chuyến hành quân cuối năm” coi như món quà Xuân nho nhỏ của một cựu chiến binh VNCH gửi tới Quê Hương, Đồng Bào, Chiến Hữu và bạn Đồng Minh một thời.

Sáng ngày 23 tháng Chạp Âm Lịch năm Tân Hợi (khoảng đầu tháng 2 năm 1972 Dương Lịch) Trung tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn II gọi điện thoại cho tôi,
“Trưa nay chú lên gặp Trung tướng để nhận lệnh hành quân.”
Tôi đã trình diện đúng giờ.
Trung tá Tiếu chờ tôi nơi cầu thang dẫn lên lầu hai.
Chúng tôi theo nhau bước vào văn phòng Tư Lệnh.
Ngay sau đó, anh Quân Cảnh đã nhanh tay đóng kín cửa phòng.
Cuộc họp hôm đó diễn ra chỉ có 3 người: Trung tướng Ngô Du, Trung tá Trịnh Tiếu và Đại úy Vương Mộng Long.
Lệnh ban ra ngắn, nhưng rõ ràng và dứt khoát:
“Nhiệm vụ của Long là đích thân thám sát truy tìm cho bằng được sự có mặt của xe tank Cộng Sản trong vùng Tam Biên.”
Tôi biết kết quả của cuộc hành quân này rất quan trọng nên Trung tướng Ngô Du mới đích thân vạch kế hoạch và chỉ định đích danh tôi thi hành.
Buổi họp kết thúc bằng cái bắt tay thật chặt của người chỉ huy:
“Anh tin tưởng chú! Anh chúc chú may mắn!”
Nhìn nụ cười tươi tắn và phúc hậu của Tư Lệnh, tôi không thể biết được thái độ ân cần cùng những lời nói dịu dàng của ông đã phát xuất tự đáy lòng, hay chỉ là cái vỏ bề ngoài của một Lưu Bị tân thời, hay một Ngô Khởi tân thời?
Nhưng rõ ràng, cái cách bắt tay của ông và những lời khích lệ của ông đã dạy tôi một bài học về cách xử thế, về cách thu phục nhân tâm.
Thêm vào đó, những tiếng “Anh” và “Chú” phát ra từ miệng ông Tư Lệnh cũng khiến tôi quên đi cái mặc cảm tự ti của một người cấp dưới, vì tôi đã ngộ ra: Trước khi thành Trung tướng Ngô Du, đã có một Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 2 Võ Bị tên là Ngô Du, sau đó là Thiếu úy, Đại úy, Đại tá Ngô Du.
Tôi cũng tốt nghiệp từ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, đương nhiên tôi có quyền hy vọng…
Với lòng thiết tha yêu Quê Hương và yêu Quân Đội, tôi chưa từng từ chối bất cứ nhiệm vụ nào mà cấp trên giao phó.
Hiện thời, đang là một sĩ quan giữ chức vụ Trưởng Phòng 2 của Biệt Động Quân Vùng 2 nhưng tôi vẫn vui vẻ và hãnh diện với vai trò Trưởng toán Viễn Thám của mình.
Tôi biết rõ, trong lòng địch, mạng sống của một Đại úy Viễn Thám cũng chẳng có gì khác biệt so với mạng sống của một Binh nhì Viễn Thám.
Ngày mai, tôi sẽ mặc cái áo không có ba bông mai đen hay mai vàng trên cổ; trên vai tôi cũng cõng một chiếc balô trong đó có tấm nhựa nylon che mưa cùng 7 ngày lương khô; ngang hông tôi cũng kẹp chặt khẩu M16 với cái băng chứa 20 viên đạn.
Và quan trọng hơn cả, trong lần nhảy toán này, nếu bất ngờ… xảy ra tao ngộ chiến … nếu tôi bắn chậm…tôi sẽ chết!
Giữa trưa, 23 tháng Chạp Âm Lịch tôi rời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, với một cái máy ảnh mini treo tòn ten trước ngực bởi sợi dây da choàng quanh cổ, trên tay tôi ôm 10 tấm bản đồ Dak Mot Lop tỷ lệ 1/50,000 bao gồm cả khu vực Tam Biên Việt-Miên-Lào.
Viễn Thám của Phòng 2 Biệt Động Quân lúc nào cũng sẵn sàng.Tôi chỉ cần tóm tắt trong vài câu nói, thuộc cấp của tôi sẽ thi hành không sai:
“Toán A của Hạ sĩ Yêng và Toán B của Trung sĩ Thìn, sẽ vào vùng với 7 ngày lương khô. Hạ sĩ Ba đi theo Đại úy Trưởng Phòng.Toán B đem theo 1 ăng ten 292”
Kỳ hành quân này các toán viên sẽ không hóa trang với quân phục màu xanh rêu, nón tai bèo và AK 47 của Việt Cộng. Chúng tôi trang bị thật bình thường với nón đi rừng cùng dây ba chạc và M16.
Từ ngày đáo nhậm chức vụ Trưởng Phòng 2 Biệt Động Quân /Quân Khu 2 mọi phương tiện chuyển vận và yểm trợ của tôi đều nhờ vào Ban Cố Vấn Hoa Kỳ. Tôi đi đâu thì cố vấn của tôi cũng phải đi theo.
Tôi đích thân thông báo lịch trình chuyến đi cho Cố vấn Phòng 2 hiện thời là Đại úy Humphrey.
Chỉ mười phút sau khi nhận tấm bản đồ, Humphrey cùng người lính Mỹ mang máy PRC 25 của anh đã ở vào tình trạng sẵn sàng.
Đúng 5 giờ chiều chúng tôi tập họp trong căn nhà phía sau văn phòng để kiểm tra quân phục, vũ khí lần chót. Mọi sự chuẩn bị đều ổn.
Tối 23 tháng Chạp Âm Lịch tiễn Ông Táo về Trời, trong văn phòng của tôi có 8 người lính Việt Nam và 2 người lính Mỹ ngồi quây quần trên nền gỗ. Ở giữa vòng tròn người là một mâm rau thơm, rau sống với 4 con gà luộc, gần chục ổ bánh mì cùng 2 vò rượu chát Napoleon.
Tôi nâng ly, mở lời,
– Hôm nay để tiễn chân Táo Quân, tụi mình sẽ chơi hết hai bình Napoleon này!
Mười anh lính Việt, Mỹ, Kinh, Thượng cùng giơ tay hô to,
“Dô!…Dô!…Go!…Go!…”
Hạ sĩ Yêng là người Thượng, tửu lượng khá cao, thoáng chốc đã cạn ly rượu thứ nhì.
Yêng quệt miệng rồi nhìn tôi,
– Anh Hai! Em nhờ Anh Hai một việc được không?
– Ừ! Được!
-Nếu ngày mai em không về, em nhờ Anh Hai gả thằng Y Tuk Nier cho con vợ em có được không? Em thấy thằng Tuk cũng hiền, em thương vợ em, em cũng thương thằng Tuk!
Nhiều năm sống cùng người Thượng, từng vài lần chỉ huy những đơn vị người thiểu số nên tôi chẳng sững sờ, ngạc nhiên trước ý nguyện của thằng Yêng,
– Okay! Hãy làm cho xong công tác ngày mai. Chuyện sau đó Anh Hai sẽ tính tiếp!
Nghe tôi trấn an, thằng Yêng khẽ gật đầu rồi đưa tay chùi nước mắt.
Hạ sĩ Yêng và Binh Nhứt Tuk là lính tăng phái từ Tiểu Đoàn 90 ở Trại Dak Seang. Yêng có vợ một con, còn Tuk thì độc thân.
Chẳng riêng gì ở các đơn vị người Thượng, mà thời chiến chinh này chuyện một anh lính cưới vợ anh bạn vừa tử trận không còn là lạ.
Hồi còn ở Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân tháng 11 năm 1967 Hạ sĩ Hường tử trận ở Blao, tôi cho phép Binh nhất Bụng đưa vợ Hạ sĩ Hường và quan tài của Hường về Đà Nẵng.
Sau khi lãnh tiền tử tuất, vợ Hạ sĩ Hường đã sớm trở thành vợ Binh nhất Bụng.
Sau đó vì thấy Binh nhất Bụng cần mẫn, siêng năng, tôi đề bạt cho Bụng lên hạ sĩ.
Trận Ben Het tháng 5 năm 1969, Bụng thăng cấp hạ sĩ nhất.
Tôi bị thương nặng trận này và thuyên chuyển đi đơn vị khác ngay sau khi xuất viện.
Năm 1970 tôi được tin Hạ sĩ Bụng tử trận trong một lần chạm súng ở Núi Voi Đà Lạt.

Từ trái: Lũy, Lạn, Attaya, Long, Hester, Đàm, Đa, Quý – Pleiku 1968 – 8 người trong ảnh Pleiku 1968 nay chỉ còn 2: Mục Sư Hồ Khắc Đàm (CA) và VMLong (WA)
Bẵng đi một thời gian tôi mới gặp người goá phụ của đơn vị cũ trong sân Liên Đoàn 2. Chị ấy kể rằng lãnh tử tuất của anh Bụng xong chị tính về quê Quảng Nam, nhưng có ông hạ sĩ giữ kho nhiên liệu muốn nối duyên cùng chị, chị xuôi tay, bằng lòng. Ông hạ sĩ này hơi lớn tuổi, góa vợ và có hai đứa con, một trai, một gái.
Chị vừa cười vừa giải thích với tôi, “Em bằng lòng lấy anh ấy vì không cần mang nặng đẻ đau mà vẫn có con. Có cả nếp, cả tẻ, cả gái, cả trai. Mai này về già chắc chắn có nơi nương tựa!”
Nhớ lại chuyện xưa, tôi thấy thương thằng Hường, thằng Bụng.
Nhìn thằng Yêng sụt sùi, tôi thấy lòng mình như đang chùng xuống.
Bất chợt, trong đầu tôi hiện ra hình ảnh vợ tôi và đứa con gái đầu lòng vừa tròn 3 tháng tuổi.
Tim tôi bỗng như đập chậm lại một nhịp, ngập ngừng.
Phải chăng tôi vừa động lòng, tự thương cho chính bản thân mình?
Humphrey là người hay hóng chuyện. Thấy Hạ sĩ Yêng nức nở, anh ta hỏi tôi,
-Vì sao anh ta khóc?
Tôi bèn kể lại lời trăn trối của Yêng cho Humphrey nghe. Hiểu chuyện rồi, viên sĩ quan Mỹ gật gù:
“Thật là tốt! Một người chồng biết lo cho tương lai của vợ con!”
Đại úy Humphrey có cái máy Cassette, anh ta giơ tay nhấn nút Play, tiếng hát của Neil Sedaka lập tức cất lên cùng tiếng nhạc xập xình. Lời của bài ca sao buồn quá…
“One way ticket! One way ticket !
Gotta travel on, ain’t never comin’ back
Ooh, ooh, got a one way ticket to the blues…”
Tạm dịch:
“Vé một chiều! Vé một chiều!
Lên đường, không bao giờ quay lại…
Ù!… Ú!… Ù!… U!!….
Vé một chiều, đi về biển xanh…”
Đây không phải là lần đầu tôi nghe ca khúc này. Sau khi bị trọng thương Tết Mậu Thân 1968, tôi được nghỉ 29 ngày tái khám. Về thăm nhà ở Hội An, tôi có dịp nghe bài “One way ticket” lần đầu qua chiếc máy thu băng của một sĩ quan Đại Hàn. Ngày ấy nghe Neil Sedaka hát, tôi không thấy có gì đáng chú ý.
Nhưng nay thì khác, mai tôi sẽ lên đường, có thể đây sẽ là chuyến đi không trở lại.
Để chấm dứt cái không khí phiền não bi quan, tôi đưa tay tắt cái máy Cassette, rồi hất hàm về phía Trung sĩ Thìn,
– Tình Nhớ!
Trưởng toán Lương Thìn lập tức xoay người ra sau lưng, sau lưng chú ấy có cây guitar.
Lương Thìn đàn rất hay và hát cũng rất hay, bài ca chú thích nhất có tên là “Tình Nhớ”
Chú Thìn thua tôi mười tuổi, chẳng biết Thìn đã qua bao nhiêu lần thất tình, mà mỗi lần cất tiếng, “Tình ngỡ đã quên đi…” thì người nghe sẽ không còn nhớ tới cái tên Khánh Ly!
Tôi là người uống rượu rất kém, chưa qua ly thứ nhì mặt tôi đã nóng bừng.
Rồi từ đó, tôi chỉ biết đưa tay lên, xuống, cụng ly với anh em mà không uống thêm nữa…
Tôi không nghe rõ Hạ sĩ Ba đã ca bài ca Vọng Cổ có tên gì, tôi cũng thấy Humphrey hát bài gì đó quen quen mà tôi đã từng nghe qua tần số FM.
Trong khi anh em càng lúc càng vui, càng nhộn thì tôi ngồi dựa lưng vào tường, chỉ biết gật gù cái đầu, nhe răng ra cười, và vỗ tay…
Khoảng 10 giờ đêm thì bữa tiệc tàn.
Ngày 24 Tháng Chạp: 8 giờ sáng chúng tôi lên xe, tới xế trưa thì có mặt ở Ben Het.
Ben Het nằm trong địa phận Quận Dak Tô tỉnh Kontum, cách ngã ba biên giới Việt, Miên, Lào chừng 13 cây số.
Ben Het còn có tên Lào là Bản Het. “Bản” có nghĩa là “Làng” theo tiếng Lào.
Mặt khác, Việt Cộng lại gọi Ben Het là Pơ Lây Cần.
Chúng tôi ngừng xe trước một tiền đồn quân sự có tên là Trại Bạch Hổ.
Trước đây, tiền đồn này mang tên Camp Ben Het, do Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu của Mỹ phòng thủ.
Nhưng cuối năm 1970, khi đơn vị Dân Sự Chiến Đấu này được cải tuyển thành Tiểu Đoàn 95 Biệt Động Quân Biên Phòng thì Tướng Ngô Du đã đổi tên Camp Ben Het thành Trại Bạch Hổ.
Lúc này Thiếu tá Lê Chữ đang giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 95 Biệt Động Quân Biên Phòng.
Tôi xuống xe rồi leo lên đồi gặp Thiếu tá Chữ. Tôi trao tận tay ông Chữ cái công điện tuyệt mật của Phòng 2 Quân Đoàn II, trong đó có ghi rõ từ ngày N ranh giới hoạt động về hướng Tây của Tiểu Đoàn 95 sẽ là trục tung YB 80 trên bản đồ. Từ trục này kéo dài về hướng Tây là vùng của Viễn Thám Biệt Động Quân/Quân Khu 2.
Nhiệm vụ của tôi kỳ hành quân này hoàn toàn độc lập. Tôi không phải báo cáo diễn tiến hoạt động của tôi cho bất cứ ai. Tôi được trực tiếp yểm trợ pháo binh từ Căn Cứ 6 và Pháo Binh Biên Phòng Ben Het.
Đại úy Humphrey có tần số của những chiếc O2 và OV10 bay liên tục trên trời, khi hữu sự, chúng tôi sẽ được Không Lực Hoa Kỳ ưu tiên yểm trợ.
Đúng chương trình, lúc 3 giờ chiều tôi nhận được 2 trực thăng để di chuyển chúng tôi lên núi Ngok Hồi.
Mười phút sau khi đạp đất, toán B đã dựng xong cây ăng ten 292 và bắt đầu thử máy với Trại Bạch Hổ và Căn Cứ 6.
Ngày 25 tháng Chạp: 6 giờ sáng tôi cho lệnh khởi hành.
Hạ sĩ Yêng dẫn đầu, tiếp đó là hai viễn thám viên rồi tới tôi, đi sau tôi là Hạ sĩ Ba, theo sau Hạ sĩ Ba là Đại úy Humphrey, đoạn hậu là anh mang máy truyền tin người Mỹ.
Chúng tôi trượt theo triền dốc hướng chính Tây mà tiến.
Xuống hết vòng cao độ 700 chúng tôi bị sương mù dày đặc che mắt chẳng nhìn thấy gì.
Sau khi vượt con suối nhỏ, tôi đặt chân lên con đường xe be cũ, không dấu vết người.
Có lẽ đây là Tỉnh Lộ 512 nối dài?
Đường xe be này cỏ tranh cao quá đầu, tôi e rằng mặt lộ có mìn bẫy của quân đội Hoa Kỳ gài lại trước đây, nên cho quân tạt vào bên trái, đi theo triền núi và cách mặt đường khoảng hai trăm thước.
Thảo mộc khu vực này toàn là tre lồ ô và cỏ tranh.
Giữa ban ngày mà muỗi bay từng đàn tấp vào mặt rát rạt như ném trấu.
Hình như có vài con vắt đã chui vào ống quần tôi, da tôi bắt đầu ngứa ngáy khó chịu.
Lâu rồi tôi mới lội bộ trong rừng có vắt, nên ngày khởi hành tôi quên béng đi cái vụ đem theo thuốc chống vắt. Có lẽ giờ này trên đùi tôi đang treo tòn ten mấy con vắt to như ngón tay!
Chưa tới 3 giờ chiều mà sương mù đã đặc quánh lại như mây.
Đi thêm một giờ nữa nhưng không thấy động tĩnh gì, tôi cho quân dừng lại bên rừng cỏ hôi.
Người đi đầu vạch một lỗ vừa thân mình, rồi cả đoàn theo nhau chui vào rừng cỏ.
Chui được chừng hơn mười thước tôi cho lệnh dừng lại. Chúng tôi xoay một vòng tròn, nằm đâu đầu vào giữa.
Người canh gác ca đầu là anh lính mang máy của toán A. Đúng hai tiếng đồng hồ sau, anh ta sẽ vỗ vai người nằm kế thay phiên gác, cứ thế, luân phiên, bất kể là tôi hay anh đại úy Hoa Kỳ.
Tôi là người gác thứ sáu, mãn giờ gác của tôi thì trời đã mờ sáng.
Mọi người đánh răng, lau mặt một cách lặng lẽ, không ai dám khạc nhổ hay ho hắng.
Tôi mở ba lô, một khẩu phần lương khô loại C của Mỹ được khui ra, ăn với nước suối từ bi đông, không lửa khói, thuốc lá là thứ tuyệt đối cấm!
(còn tiếp)








