“Nhạc sĩ Hoàng Nguyên vĩnh viễn ra đi đã gần nửa thế kỷ nhưng gửi lại cho đời không ít những tác phẩm đáng trân trọng bởi nét nhạc tài hoa với lời ca thấm đậm”.

(Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9)

  1. Nhạc sĩ Hoàng Nguyên

Nhạc sĩ Hoàng Nguyên (1930-1973) tên thật là Cao Cự Phúc, sinh tại xã Diễn-Bình, huyện Diễn-Châu, tỉnh Nghệ-An. Hoàng Nguyên say mê âm nhạc, hội họa từ lứa tuổi thiếu niên và từng được học âm nhạc với nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Năm 1948, Hoàng Nguyên tham gia kháng chiến nhưng rồi từ bỏ, quay về thành phố 2 năm sau đó và theo học tại trường Quốc học Huế rồi Đại học Huế một thời gian ngắn thì thôi học. Sau ngày hiệp định Genève được ký kết, Hoàng Nguyên dạy môn Việt văn và âm nhạc tại một trường tư thục ở Đà-Lạt (lúc đó nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 là học trò của Hoàng Nguyên).

Năm 1956, trong một đợt truy lùng và tìm thấy bài hát “Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao, Hoàng Nguyên bị bắt và đày ra Côn Đảo. Do mến chuộng tài năng, Hoàng Nguyên được vị chỉ huy trưởng đảo đưa về tư thất dạy âm nhạc và Việt văn cho con gái ông. Trăng sao, sóng biển là chứng nhân cho mối tình thầy trò được dệt thêu từ thơ văn, âm nhạc và âm thầm đơm hoa, kết trái. Để tránh tai tiếng cho gia đình, vị này vận động cho Hoàng Nguyên được trả tự do với điều kiện phải thành hôn với con gái ông.

Hoàng Nguyên trở về Sài-Gòn, tiếp tục sáng tác và dạy học. Năm 1961, Hoàng Nguyên theo học tại trường Sư phạm Sài-Gòn và có dịp quen biết với vị thị trưởng thành phố Phan-Thiết. Hoàng Nguyên nhận dạy kèm cho con gái ông bà và trở thành con rể. Trước đó Hoàng Nguyên có ý định quay lại với cô gái ở Côn-Sơn, nhưng tiếc thay, cô đã đi lấy chồng. Nhạc phẩm “Thuở ấy yêu nhau” ra đời vào năm 1964 để tưởng nhớ một mối tình không trọn vẹn.

Xem thêm:   Dầu thơm...

Năm 1965, Hoàng Nguyên bị động viên vào trường Bộ binh Thủ-Đức của QLVNCH và được chuyển về Cục quân cụ, dưới quyền của Đại tá Trần Văn Trọng (nhạc sĩ Anh Việt). Hoàng Nguyên được giao phó chăm sóc ban nhạc “Hương Thời Gian” của nhạc sĩ Anh Việt cùng với chương trình ca nhạc “Tiếng Thời Gian” trên làn sóng truyền thanh và đài truyền hình số 9 được đông đảo khán thính giả yêu thích, mến mộ.

Nhạc sĩ Hoàng Nguyên không may qua đời vào ngày 21 tháng 8 năm 1973 ở Vũng-Tàu trong một vụ tai nạn giao thông giữa lúc tài năng đang độ chín muồi.

Nhạc sĩ Hoàng Nguyên để lại cho đời nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như “Ai lên xứ hoa đào”, “Bài thơ hoa đào”, “Cho người tình lỡ”, “Đà-Lạt mưa bay”, “Đừng trách gì nhau”, “Đường nào em đi”, “Đường nào lên thiên thai”, “Duyên nước tình trăng”, “Em chờ anh trở lại”, “Gió trăng ngàn”, “Lá rụng ven sông”, “Tà áo tím”, “Thuở ấy yêu nhau”, “Tiếng hai đêm” v.v.

  1. Mùa hoa đào trên phố núi

Một lần ngắn ngủi trong đời khi dừng chân nơi phố núi, nhạc sĩ Hoàng Nguyên loay hoay tìm kế mưu sinh và may mắn tìm thấy được cho mình cảm xúc đẹp đẽ của lứa tuổi đôi mươi giữa cuộc chiến nhập nhằng sáng tối. Màu hoa đào với cánh hồng phơn phớt đã len vào tâm tư và tràn lên khung nhạc. Sẵn có trong người một tâm hồn lãng mạn, ông đã trải lòng mình trước khung cảnh cao nguyên hùng vĩ có thác ngàn, thông reo với những cảm xúc rộn ràng…

Xem thêm:   Lễ Tạ Ơn trên thế giới

“Đường trần nhìn hoa bướm rồi lòng trần mơ bướm hoa

Lâng lâng trong sương khói rồi bàng hoàng theo khói sương

Lạc dần vào quên lãng rồi đường hoa lặng bước trong lãng quên” (*)

Lời ca đẹp với cách “đảo ngữ” khéo léo làm người nghe mê say như lạc vào cõi mộng với những “hoa bướm, bướm hoa”, “sương khói, khói sương”, “quên lãng, lãng quên”. Phải yêu Đà-Lạt nhiều lắm tác giả mới viết lên được những câu ca tuyệt vời như vậy. Có lẽ từ trong tâm tưởng, Đà-Lạt đã là một người tình lý tưởng và được thêm sắc, thêm hương qua những nốt nhạc si mê của Hoàng Nguyên, người nhạc sĩ đào hoa …

“Ôi, Đà Lạt là mơ, giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần

Tóc mây buông lơi tha thướt bên hồ

Đợi tình quân đến trong giấc mơ” (**)

Nhưng ở trên cõi đời này, đêm rồi cũng qua đi, giấc mơ nào cũng ngắn ngủi, cuộc tình nào cũng dễ phai phôi, niềm vui nào cũng tan và thường để lại những kỷ niệm khó phai mờ trong tâm trí …

“Đà-Lạt buồn mưa mãi mãi không thôi

Sương ngủ trên đồi, sương vây thành phố

Nhớ cánh hoa đào nào vương trên áo tôi” (***)

Định mệnh khắc nghiệt rẽ chia nẻo đời ra trăm hướng. Người ra đi để lại một thành phố sương mù giăng mắc, mây buồn bay bảng lảng và những cánh đào úa phai sắc thắm.

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (11/27/2025)

Nửa thế kỷ đi qua, Đà-Lạt yêu kiều của Hoàng Nguyên đã thay áo mới, chiếc áo xấu xí, không vừa vặn làm mất đi vẻ đẹp thơ mộng nguyên sơ. Vì cái túi tham, người ta chặt cây, đốn rừng để mưa lũ tràn xuống, phố xá cao nguyên đã thành sông. Đà-Lạt ngập lụt và nước dâng cao một màu đất đỏ. Người dân Đà-Lạt đã ra đi gần hết và bỏ lại sau lưng những mùa hoa đào bơ vơ trên phố núi. Dân tứ xứ tràn vào Đà-Lạt để lập nghiệp và mang theo thói ăn, nết ở hết sức rừng rú, mọi rợ. Hàng thông buồn bã đứng phơi mình giữa sương đêm lạnh giá, dòng suối Cam-Ly cũng cạn nước từ lâu. Người ta ví von Đà-Lạt như một nàng tiên với phần số không may bị đày đọa xuống trần gian trong một hình hài xấu xí. Giấc mơ tiên đã xa và người lữ khách một lần ghé thăm Đà-Lạt đã không bao giờ trở lại từ dạo ấy. Phố núi quạnh hiu, phố núi buồn muôn thuở và những cành đào phải thẹn thùng trước ngọn gió đông. Đà-Lạt đẹp đẽ trong thi ca và âm nhạc từ lâu đã phai phôi và nhạt nhòa bởi những cơn mưa rừng ray rứt lòng đau.

TV, (20.11.2025)

(*) Ai lên xứ hoa đào

(**) Bài thơ hoa đào

(***) Đà-Lạt mưa bay