“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Đồng vọng

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng… năm 1998.

Cháu Đồng Vọng mến,

Nhận được thư cháu thăm hỏi về sức khỏe của chú, chú Hai mừng lắm. Em cháu có lòng, thật tình, kiếm không được nhiều cháu Đồng Vọng à.

Chú thì luôn yếu đau vậy, giống như hồi trước chú Hai cũng yếu đau vậy! Cứ bốn năm chú nằm liệt giường ba bốn tháng như thói quen, mặc dù cái thói quen này mình không muốn làm quen chút nào! Vậy mà không chu kỳ nào căn bịnh lại không đáo hạn. Nào là 1976, 1980, 1984, 1988, 1992 với những ngày nóng mê man, đêm lạnh run lập cà lập cập…

Ở nhà quê mà, đâu có gì hơn là lửa củi. Cứ thế, mỗi khi chú bị lạnh, vợ chú đốt lửa củi cháy rực trời. Từ dưới sàn nhà, từ dưới giường ngủ lửa chui qua vạt tre, chui qua chiếu, lửa chạm vào da thịt nóng hừng hực… Có như vậy mới chống đỡ với cái lạnh từ trong xương lạnh ra. Vậy mà tay chân run cứ run như ma nhập. Mình mẩy lạnh như ma da vừa bò lên từ dưới mé nước, bờ sông. Hết cữ lạnh lại đến cơn nóng sốt. Sốt gì mà tối tăm mặt mũi. Sốt không còn biết trời đất vạn vật, không còn biết mình mấy tuổi. Sốt như cuống cuồng, mê sảng. Sốt như khô, như cháy cổ, cháy thịt. Sốt làm mình tưởng đang nằm trong than, trong lửa, đang bị đốt, bị thiêu… Sau mỗi cơn nóng lạnh như vậy qua đi là đổ mồ hôi hột như người bị bịnh tà, bịnh ma khi ma quỷ xuất ra khỏi xác phàm cũng đổ mồ hôi như vậy. Những cơn đau vô tình này như những toa rập của thời cuộc làm cho thân xác chú tiều tụy hao mòn đi nhiều. Thuốc hiếm mà tiền bạc cũng hiếm. Lấy đâu ra mà chạy thầy chạy thuốc. Ở nhà quê không sợ đói, mà sợ đau cháu à. Đói thì bắt ốc hái rau, đau thì uống thuốc nhưng muốn uống thuốc phải có tiền mới có thuốc được.

Thời kỳ 1976, 1980, mỗi lần đau thập tử nhứt sanh này, chú phú cho trời mấy mươi ký thịt, không hy vọng gì sống sót mà về với vợ con, gia đình. Thời kỳ 1984, 1988, 1992 là những công đất ruộng của ông bà để lại vô tình đổi chủ mười mấy năm vì người cày có ruộng, tự dưng được những người chiếm giữ nó lại năn nỉ trả chút tiền khai mở, nên mới giúp chú vượt qua bao lần chết hụt…

Kể ra, như vậy chú cũng nhờ phước đức ông bà, cha mẹ để lại nên mới còn sống đến bây giờ. Chuyện phước đức là chuyện vô vô minh minh nhưng nó có nghe cháu, nó hệ trọng lắm, không nên coi thường. Vì vậy mà ông bà mình có câu tục ngữ “có đức mặc sức mà ăn” hoặc giả như “con trai hưởng đức mẹ, con gái nhờ đức cha” như những lời nhắc nhở của thế nhân.

Xem thêm:   Hột gạo

Cháu Đồng Vọng mến,

Có đau mới nhận ra tình, ra nghĩa cũng như có “lâm nguy mới thấu mặt anh hào” vậy! Vợ chú thì chân yếu tay mềm, lặn lội cả đời lo cho chồng, không một lời than thở phiền muộn, trăm muôn ngàn cực. Con chú lúc ấy còn thơ dại, chỉ thương ba mà theo ngồi bên mình ba hoài. Còn chòm xóm, kẻ lạ người thân, ai cũng đến với mình trong tình tương thân, tương ái đầy âu lo cho sức khỏe của chú. Người mang lại cho con cá; kẻ hái cho trái cam, trái chanh; người chỉ thầy, chỉ thuốc…

Ôi thôi! những tấm lòng chân thật nhà quê, nó mộc mạc mà tràn đầy tình người, quý trọng! Việc ở đời, cháu Đồng Vọng à, người ta hơn nhau là ở chỗ tình nghĩa khi lâm nguy như vậy!

Nói miên man mà cái thơ lại dài, nhưng mà thôi cháu à, chú muốn gởi lời cảm ơn cháu đã lo lắng, thăm hỏi sức khỏe của chú. Trong cơn đau, chú nghĩ túng: con người là một tập hợp của trời đất, có âm dương, có nóng lạnh, có lúc sáng suốt lúc tối tăm, lúc mạnh khỏe khi yếu đau… Nên chi, mình cũng không tránh khỏi những chu kỳ vận hành của trời đất được. Phải vậy hông cháu?

Mấy dòng thăm hỏi và chúc cháu nhiều sức khỏe, học hành thành tài, trước giúp mình sau giúp đời…

Cuối thơ,

Hai Trầu

 Vấn an

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 9 năm 1998.

Gửi chú Tư Thế,

Trời thần ơi, nhận được cái thư chú “vấn an”, mấy bữa rày tui không ngủ được. Vừa mừng húm mà cũng vừa nghĩ ngợi lung tung mấy câu chú hỏi. Nào là Cụ Chưởng Binh Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh chết trận hay chết vì bịnh hoạn ở miệt cù lao lòng Long Xuyên; nào là anh Hai có biết nguồn gốc hai tiếng bà con nhà quê hay xài là “mình ên”không?

Thiệt tình, câu nào cũng gắt củ kiệu nghe chú Tư. Khó ơi là khó chú Tư à! Nhưng hồi ông nội còn sống, tui thường nghe ông nội kể là ngày xửa ngày xưa, cụ Chưởng Binh Lễ dẹp giặc Miên, giặc Xiêm vùng sông Trước (*) làm cho quân giặc tan tành nhưng cụ lại bị tử trận. Rồi dân chúng lập đền thờ cụ tại làng Kiến An, thuộc quận Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Sau này tui lại nghe Tiá nói có ông thầy dạy ở trường Đại Học Hòa Hảo, gần sân bay Vàm Cống đó mà, có nghiên cứu nói cụ Chưởng Binh Lễ sau khi thắng trận giặc Xiêm, giặc Miên rồi mở tiệc khao quân tưng bừng cả vùng cù lao mấy ngày liền. Nhưng vì giặc giã kéo dài, đường sá hiểm trở, trời đất mưa dông tầm tã, lương thực thiếu hụt, sức lực con người suy yếu nên xong giặc cụ bị bệnh, rồi thổ huyết mà chết. Dân chúng tưởng nhớ công đức của Ngài, rồi lập miếu, lập đền thờ và đặt tên cù lao bên Chợ Mới là cù lao Ông Chưởng.

Xem thêm:   Đời người

Vậy đó chú Tư, chết trận hay chết vì thổ huyết chỉ lưu truyền vậy thôi chứ không chắc chắn chú Tư à. Có điều hậu thế biết tưởng nhớ công đức tiền nhân đánh nam dẹp bắc cho dân tình an cư lạc nghiệp mà ghi nhớ hoài là quý phải hông chú Tư? Cái gốc, cái cội mà, chứ đâu phải chuyện đầu môi chót lưỡi mà bay đi ào ào…

Đền thờ Cụ Chưởng Binh Lễ Thành Hầu tại Kiến An, Chợ Mới, An Giang

Chú Tư à!

Còn cái chữ “mình ên”, thiệt tình gốc gác của nó tui coi vậy chứ không rành. Nhưng có điều hai chữ này thông dụng miệt Lục Tỉnh này quá mạng. Ai ai cũng nằm lòng, ở đâu cũng nghe nói, ở đâu cũng nghe than nghe thở. Làm việc gì cực quá cứ sẵn miệng than liền: “Nhà này chỉ có một “mình ên” tui là cực”. Hoặc hỏi han, thăm lom nhau:”Bộ mày ở nhà có một “mình ên” hả?”. Như nhiều tiếng ở miệt nhà quê mình thường đọc trại từ tiếng Miên như Chắc Cà Đao, Mặc Cần Dưng, Xà Tón, Thốt Nốt, Cà Mau, Sốc Trăng, Cần Sây v.v. nên “mình ên” không biết có phải đọc trại từ gốc Miên không, vì tui cũng nghe người Miên nói tiếng Việt cũng ưa nói chữ “mình ên” lắm.

Tuy vậy, mấy chị trong xóm mình mỗi lần nói đến cảnh đẻ chửa cứ than thân, trách phận: “Đàn ông đi biển có đôi,  Đàn bà đi biển mồ côi một mình” cũng có ý than là đàn bà khi sanh đẻ chỉ có một “mình ên” đau bụng, đau dạ, trăm thứ cực, trăm thứ lo, trăm thứ sợ.

Nhưng có điều là ông bà xưa thường rầy lắm nghe chú Tư. Con cháu đứa nào nói “mình ên” là bị ông bà rầy liền, mà nhất là ban đêm ban hôm, nói như vậy không nên, dễ bị ma cỏ, người khuất mặt bắt hồn bắt vía… Rồi vì cái óc mê tín dị đoan mà dân quê mình cứ rước thầy pháp, thầy bùa chữa hoài, riết rồi hết tiền hết lúa vì cúng vái gà, heo nhưng con bịnh không hết, có khi lại vong mạng. Ở nhà quê miệt kinh cùn này nhiều lúc chết vì bịnh ma tà lãng xẹt, thiệt là oan uổng!

Sẵn đây, chú Tư còn nhớ ngày xưa có một thời người ta hay nói hai tiếng “một cây” hông? Chớ tui thì chỉ nhớ mang máng như vầy chú Tư, chẳng hạn mấy chữ này: ăn xài một cây, lấy le một cây, điệu một cây… là nhằm ám chỉ ăn xài không ai bằng, lấy le không ai bằng, điệu hạnh không ai bằng vậy mà… Nhưng mấy ông, mấy bà xưa giải thích cái gốc của hai chữ “một cây” là do chữ Nho “nhứt trụ kình thiên” đó chú Tư. Mình nói nôm na là “bẻ nạng chống Trời”.

Lần lần đến mấy năm tiền bạc rẻ rề, một lượng vàng, tui cũng nghe người ta hay gọi là “một cây” nữa đó chú. Nhưng cái nghĩa này nó lại khác xa cái chữ “một cây” dùng quen miệng ngày trước đi rồi.

Chữ nghĩa rắc rối quá chú Tư! Sẵn đây, để tui kể sơ sơ chú nghe ba cái lúa thóc bên kinh xáng mình. Năm nay nắng mưa kỳ quá chú Tư. Năm trước bão Lin-Đa hại quá mạng, nhưng sau bão lụt lúa lại trúng nứt bồ. Thấy vậy, xóm mình ai nấy xúm nhau ùn ùn làm thêm mùa lúa lỡ mong kiếm thêm ba hột cho đầy bao, đầy bồ phòng khi thắt ngặt, tối lửa tắt đèn.

Xem thêm:   Những hòn đá nhân sinh

Nhưng thất bại chú Tư à! Ba cái nạn rầy báo hại nhiều nhà bỏ ruộng, nợ sặc máu vì trị rầy không lại. Kế tiếp là mùa lúa Hè Thu tới bên lưng. Vì sạ trễ do mùa lúa lỡ tháng Ba,  nên lúa mùa này bị mưa dông tháng Bảy, tháng Tám làm ngã sập, nằm dài như rơm trải cho vịt gà lót ổ. Hột lép, hột còn, ăn nửa, bỏ nửa, nên thất bát quá chú! Giống như cái lệ chú Tư à, lúa thất là giá lúa mắc mỏ đỏ con mắt. Vậy là người nhà quê làm lụng tay lấm chân bùn như tui là lãnh đủ nghe chú!

Thôi, kể cho chú nghe chơi, chú đừng buồn vì “đói thì ăn rau, đau thì uống thuốc”, nghĩa là cũng có thứ rau cỏ trên đồng để mà ăn khi thắt ngặt. Phải vậy hông chú Tư? Lần này cái thơ khá dài, cho tui ngưng ở đây nghe chú, kỳ sau tui viết nữa. Thăm chú và sắp nhỏ.

Cuối thơ,

Hai Trầu

(*) Sông Trước chỉ sông Tiền Giang chảy ngang Tân Châu, Hồng Ngự, Cao Lãnh…

Tiều phu gánh củi về ngang núi

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng… năm 1998.

Thơ gởi chú Tám Đạo,

Lâu quá rồi đó chú Tám, tui không biên thơ từ gì cho chú. Một phần vì tui già rồi nên trong mình cứ rề rề hoài; một phần khác tui cũng lu bu lo ba cái ruộng vườn, lúa thóc. Ở nhà quê, kinh cùn mà, không lúa không gạo là không thể sống chú Tám à!

Vậy mà cũng có tới gần mười mấy năm, hai anh em mình kết nghĩa rồi xa nhau tới bây giờ, nhưng sao mà tui cứ nhớ chú Tám mầy hoài. Nhớ hồi năm nẳm, gặp chú tại bến xe Long Xuyên, tay xách cái giỏ đệm bàng vừa trên xe bước xuống, chú hỏi tui: Anh Hai ơi, anh làm ơn chỉ giùm em đường nào vô núi Sập.

Thấy chú em mặt trắng trẻo như một đứa học trò, giọng nói miền Trung mà sao lại hỏi đường vô núi Sập, tui cũng hơi nghi nghi, ngờ ngợ… Cái thời kỳ đó là cái thời kỳ không ai tin ai, nên tui có hơi “bán tín bán nghi” nghe chú. Nhưng thấy chú hiền hiền, nên tui không ngại dẫn chú về nhà tui chơi, cơm nước xong xuôi rồi đi núi Sập cũng còn kịp, vì từ nhà tui, ngay vàm kinh xáng Bốn Tổng, đi núi Sập cũng gần.

Vậy mà rồi tui với chú quen nhau, kết nghĩa anh em cho đến khi hay tin chú vô núi Sập là để tìm đường qua Rạch Giá, Hà Tiên rồi vượt biên. Sau này được thơ chú ở đảo bên “Anh Đô” gửi dìa, tui mới hay cớ sự …

Nhắc sơ sơ để chú Tám mầy nhớ cái buổi sơ ngộ vậy mà! Chứ thật tình mà kể cho hết chuyện, có lẽ anh em mình phải ngồi dưới gốc xoài lai rai mấy chai rượu thuốc ngâm rắn chôn đúng một trăm ngày may ra mới đã cái tình kết nghĩa lúc cơ hàn… Phải vậy hông chú Tám?

Nhưng dường như tui nhớ không lầm, là trong thời gian ở nhà tui chơi đâu được mấy ngày, tui có dắt chú lên núi Ba Thê đốn củi chơi cho khuây khỏa vì tui thấy chú như nhớ nhà.

(còn tiếp)