“…Chỉ là những câu chuyện vụn vặt được chắp nối qua những mảnh đời dân quê miệt kinh rạch hầu san sẻ cùng bạn trẻ, những người chưa hoặc không có dịp sống gần gũi với dân ruộng về các miền kinh rạch ấy như một nét đặc thù của văn minh Việt bên cạnh một nếp “văn minh miệt vườn” khá sung túc, trù phú…” (Hai Trầu Lương Thư Trung).

Luôn tự nhận mình là một “người nhà quê”, nhưng ai cũng hiểu là cách nói khiêm cung của một học giả, kiến thức quảng bác, như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trìu mến nhận định “Nó là văn chương miệt vườn. Sau này muốn biết về miền Nam mưa nắng hai mùa ra sao thì phải đọc Sơn Nam và Hai Trầu thôi.”.

Mời bạn cùng chúng tôi dạo chơi cùng mưa nắng miền Nam…

(tiếp theo)

Lúc tui vừa đọc vô mấy hàng đầu, tui nghi nghi là anh ở miệt kinh Tân Hiệp rồi. Vì tui thấy lá thư anh viết có văn chất lắm, nhưng không chắc có phải anh ở vùng đó hay không. Nên tui cứ phăng phăng tới hoài, té ra quê bên nội anh ở kinh D, mà tui bên này kinh xáng Bốn Tổng cũng đâu có xa xôi gì, gần nhau lắm anh Hai Tiên à.

Hồi trước lúc tui còn nhỏ như anh, tui cũng hay theo má tui qua mấy con kinh chỗ anh ở để mua heo giống dìa nuôi. Bên đó chợ nhóm trên đường liên tỉnh số 8, dọc theo kinh Cái Sắn chạy vô Rạch Giá, nên lớp thì xe cộ, lớp xuồng ghe, lớp tàu bè qua lại nên chợ kinh nào cũng ồn ào, tấp nập, đông rần rần. Bà con trong kinh mang heo, gà, vịt, đồ hàng bông như rau, cải, bầu, bí mướp, cà, thuốc hút và đủ thứ thực vật để bán buôn cho bà con tại chỗ hoặc từ các nơi khác tới, hoặc kẻ qua người lại, riết rồi thành những chợ dọc theo con đường xe hơi này mà nổi tiếng như cồn, trong đó có cái chợ kinh D của anh nữa.

Anh Hai Tiên ơi,

Đọc cái thơ anh tui thấy nó thấm nhiều món lắm. Từ lúc nhỏ đi học chạy giỡn nô đùa, chọc phá con gái đến đi câu cá nữa. Tui không ngờ anh cũng tin dị đoan là câu cá mà không sát cá là cứ ngồi hoài chờ thời, nhưng thời chẳng bao giờ tới, cho dù chỉ mong cá tới rỉa mồi. Nghe anh kể anh biết lấy cái tim đèn trong cây điên điển làm phao để biết khi nào cá ăn, cá rỉa mà giựt là tui phục anh rồi. Phục vì anh mê cá đến run tay nên anh không biết khi nào cá ăn, khi nào gió đẩy gió đưa nhợ câu trôi qua trôi lại.

Tui cũng đâu hơn gì anh ba cái vụ mê này. Nên có lần cũng vì mê câu như vậy cập bờ kinh tháng nước ngập, tui bị té chúi đầu xuống nước, uống cho mầy một bụng rồi hết thở luôn. Nhưng may có người bơi xuồng qua nhìn thấy tui còn chòi chòi, rồi la làng tá hỏa lên, và xúm nhau vớt tui lên bờ lật ngược đầu, xốc nước cho một trận, nên tui mới từ từ tỉnh lại. Từ đó tui sợ té sông lắm anh Hai Tiên à, nhưng tới khi có vợ con đùm đề tui lại không bỏ được cái nghề giăng câu, giăng lưới như một nghề hạ bạc ở miệt kinh cùng của mình. Vừa có cá, vừa kiếm cơm mà vui đời thanh đạm nữa. Rồi nào là sự tích vua Lê Lợi giả làm người làm ruộng khi giặc Tàu đuổi bắt, nào là cái chữ lễ, chữ trung của con dân nước Việt nữa anh Hai à! Đâu phải đợi làm quan, làm tướng mới giữ chữ trung, mà nông dân làm ruộng nhiều lúc còn trung đâu kém gì ai!

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (10/16/2025)

Cho nên anh lúc mới vào thơ, nhắc tui hay tự hào mình là người quê mùa, ruộng rẫy. Tui đâm ra giựt mình, không biết anh này có trách móc gì mình hay không? Nhưng đọc hết cái thơ mới thấm cái tình của anh nơi xa xôi mà ngồi viết tới mấy trang nhờ em cháu mang tay dìa, thật là còn hơn tiền, hơn bạc nữa.

Kinh Cái Sắn – nguon ThuymiRFIBlogspot 

Bây giờ anh thử nghĩ mà coi, tui già quá là già rồi. Dân chẳng ra dân, lính chẳng ra lính, làng xã cũng không bao giờ làm làng, làm xã. Ngu thì không ngu lắm nhưng khôn thì chắc cũng chẳng khôn lanh gì. Bằng cấp bằng kiếc thì cũng chẳng có lấy một tờ giấy lộn lưng, cứ sơ học rồi tiểu học mút mùa. Lâu quá rồi nên chữ nghĩa nó cũng quên tui tuốt luốt. Thành ra, chữ nghĩa cũng không ra chữ nghĩa. Nên chi chỉ còn cái nhà quê là cái vốn liếng cuối cùng của tuổi già này. Nhờ vậy mà tui vui với cái quê mùa dữ lắm anh Hai à. Thành ra, tui sống với nó, tui theo nó và nó cũng theo tui dính đuôi nữa…

Mấy hôm trước, tui có đi ngang cái quán bán cối xay bột bằng đá xanh của cô Ba gần đầu cầu sắt tại chợ Núi Sập. Bây giờ cô Ba cũng già lắm rồi anh Hai Tiên. Để tui huỡn huỡn, sai mấy đứa nhỏ lấy xuồng bơi vô Núi Sập một bữa, rồi sẽ ghé thăm và chuyển lời anh thăm cô Ba luôn thể. Nghe đâu bây giờ cô cũng gả cưới được ba, bốn đứa rồi anh Hai à. Cháu nội, cháu ngoại cũng bộn. Còn chồng của cô Ba, sao lâu nay tui không thấy. Chắc ổng hui nhị tì rồi hay sao mình đâu dám hỏi han, tò mò mà làm gì. Chừng nào anh có dìa, chắc cái quán bán cối xay bột của cô Ba cũng còn nhưng không biết anh có nhận diện được Cô Ba như hồi trước hông. Vật đổi sao dời quá mạng mà!

Tui viết lòng vòng mà cái thơ lại dài thậm thượt. Để hôm nào con chị Ba Hiền trở qua bển, tui gửi qua anh một mớ khô cá lóc ốp để anh nhậu lai rai lấy thảo với tui nhe! Tui biết anh bên đó không thiếu món gì nhưng chắc không có khô cá lóc ốp vì nghe đâu ở bển phơi khô là vi phạm vệ sinh, lối xóm không chịu. Phải vậy không anh Hai? Chừng nào anh uống rượu với khô thì nhắc tui nghe. Thiệt tình, mới dặn anh là tui muốn say rồi. Trong thơ, anh nói: “Rượu Tình Chửa Uống Đã Say”, nó thâm thúy quá mạng! Tui cảm động là vậy!

Xem thêm:   Thư mắng vốn đầu tiên

Anh cho tui gởi lời thăm chị Hai và sắp nhỏ mạnh giỏi. Còn anh thì chừng nào mua đất cất nhà, đào ao nuôi cá nhớ viết cho tui vài chữ, đặng tui mừng cho anh nhe anh Hai.

 

 Cuối thơ,

 Hai Trầu

Vỏ chanh chấm muối

Kinh xáng Bốn Tổng ngày… tháng 9 năm 1999

 

Chú Bảy Luân sắp nhỏ,

Lâu quá rồi chú Bảy, anh Hai của chú đau bịnh mấy tháng liền, nên không đủ sức già ngồi dậy để viết nguệch ngoạc cho chú vài hàng. Như vậy mà cũng đã gần năm tháng dài, kể từ hôm chú về lung Ngọc Hoàng để đi câu cá lóc, chứ đâu có ít ỏi gì!

Thời giờ bây giờ sao mà chớp nhoáng, nhanh quá chừng là nhanh Chú Bảy à! Chưa kịp đếm ngày, đếm tháng rồi lại hết mùa nắng tới mùa mưa, qua mùa cày sang mùa cắt gặt không mấy hồi! Mới sáng đó mái nhà còn mát rượi, rồi lại chiều bóng nắng ngả về tây vùn vụt khi nghe con cúm núm kêu ổ ngoài đồng văng vẳng….

Mấy hôm nay ở bên kinh xáng Bốn Tổng này mưa gì mà mưa thúi đất, thúi đai! Lúa thần nông làm đợt ba năm này làm là cho có làm, cực cho thêm cực, nhưng ăn thì không dám ăn vì lúa bị mưa, bị nước chụp nên thất bát lắm! Anh Hai của chú đau rề rề, nên thấy sắp nhỏ làm ăn thất bát mà cũng phát rầu. Ở đời này, lúc mình già mà vui được ngày nào là mình khoẻ ngày nấy. Chi bằng ngược lại, nhìn cảnh vật, con cháu, em út chung quanh mà eo xèo, ủ dột là mình cũng rầu lây, rồi buồn thúi ruột, sanh đau bịnh là vậy.

Hôm trước, có thằng con dì năm Thạnh ở bên chỗ chú về ghé ngang qua thăm tui. Nó thấy tui bịnh nó móc túi cho tui một trăm ngàn đồng uống thuốc. Tui không dám nhận! Vì thật tình, chuyện ơn nghĩa nó nặng như đá làm sao mình mang vác cho nổi. Cho nên được em út nó ghé thăm là quý báu lắm rồi. Còn tiền bạc của em út là mồ hôi nước mắt phải đổ ra mới làm ra được đồng tiền, nên mình phải hiểu em út như vậy để mà tận tường bụng dạ của nó mà thương cảm nhiều hơn.

Lại nữa, mỗi ngày mấy đứa cháu trong nhà không giăng câu thì cũng lọp, cũng lờ nên cá mắm cũng tạm dùng qua bữa, chưa đến đỗi nào. Còn thuốc men, mấy thằng con trai, mấy đứa con gái, mạnh đứa nào nấy gom góp lo lắng thuốc thang cho tui nên tui thấy con cái hiếu đạo vậy cũng vui mừng mà bớt bịnh lần lần. Còn chòm xóm láng giềng, ai ai cũng ghé thăm chuyện trò làm mình cũng an ủi lúc hoạn nạn yếu đau.

Nhưng ở đời này, Chú Bảy à, mình đâu có sách ước để muốn gì được nấy đâu chú! Không như trái chanh, trái chuối, trái dừa là quý lắm rồi vì mấy loài trái vừa kể nhiều lúc cũng buồn lắm nghe chú! Chanh, chuối, dừa, ba loại trái cây này có ai ăn mà không bỏ vỏ phải hông chú Bảy? Bởi vậy người nhà quê mình hay nói “vắt chanh bỏ vỏ”, “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”, “trợt vỏ chuối” để ám chỉ những điều không tốt đẹp trong đời sống này Chú Bảy à!

Đá dế – nguồn tuoitre

Nhưng Chú Bảy có biết hông, vỏ chanh chấm muối ăn trị chứng bịnh cảm ho thiệt tài tình; vỏ chuối khi tui ở tù, ăn cái ruột xong lấy vỏ chuối phơi khô để dành ăn độn khi cơn đói hoành hành; vỏ dừa lại dùng được nhiều việc ích lợi, mà gần nhứt cũng nấu được nồi cơm, nồi cháo, ấm nước, siêu thuốc khi đau khi bịnh.

Xem thêm:   Bé gái trên đại lộ kinh hoàng

Thì ra, có thứ gì là vô ích đâu Chú Bảy. Ngay cả hột lúa sau khi giã gạo, cái vỏ trấu cũng còn dùng vào nhiều việc như hầm gạch, nấu rượu, nấu cơm, nấu tấm nuôi heo. Tới cây chuối, cái bẹ khô còn dùng vào việc lót giữa những tấm lá mỏng để chầm nón cho dày, nói gì tới vỏ cây gòn, cây sắn. Tại cái bụng người đời ưa lấy cái có làm giàu, lấy cái mới làm tốt, lấy cái sang làm trọng, lấy cái học làm cao nên mọi cái khác khi không cần hoặc quá quen thuộc cứ tưởng là mình không bao giờ dùng tới nữa, rồi đâm ra mau quên. Bởi vậy cho nên cái chõng tre cũ mới kêu than mọt ăn rạo rạo trong kho; con bò già buồn bã đến chảy nước mắt khi người ta lùa nó lên xe hàng chở về công xi làm thịt; con chó sủa gâu gâu như ghét giận người nào hay ăn thịt “cờ tây”. Do đó, vật gì cũng biết thán oán ráo trọi, nếu người ta không biết cái ích lợi của nó mà vội ngoảnh mặt bỏ đi như cọng rau muống cái ruột bọng thang, trống dọc cả đời, không cách nào bền bỉ được!

Còn chú Bảy sắp nhỏ thì sao? Có ghé quán cà phê Cây Me ngồi lai rai cà phê cà pháo gì hông? Nhớ mấy lúc trước, được thơ nào của chú, chú cũng nhắc những buổi chạng vạng chú hay tạt qua quán ngồi tán dóc chuyện Cây Gõ, Cây Mai cho bà con trai gái nghe chơi để giải buồn. Rồi nào là chuyện “con dế Tôn Tẫn” của chú nữa. Con dế có một chưn mà chú mua ở lề đường xóm Cây Gõ của bà Ba bán dế, nhưng nó đá hăng kỳ lạ. Dế lửa, dế mun nào trong xóm cũng chạy tét ráo trọi. Nhưng cảm động nhứt có lẽ kỳ đó chú kể cái cảnh chú còn nhỏ, không có tiền, nên nhịn bụng đói, đem năm mươi xu mua dế đá chơi và chỉ mua được con dế một giò vì thiếu tiền, mà tui còn nhớ tới bây giờ. Và thương đứa bé nghèo giữa chợ đời không có được con dế lành lặn đủ giò, đủ cẳng, nói gì đến những trò chơi điện tử mắc mỏ bạc trăm, bạc ngàn.

Con nít ở xứ nghèo mà, đứa nào không mũi dãi lòng thòng, mặt mày tèm lem tuốt luốt, ăn chưa đủ no, mặc chưa lành lặn, có đâu mà dám nói gì tới ba cái trò chơi mắc tiền như mấy xứ văn minh. Hồi đời tui cũng nhảy cò cò, thẩy đáo lạc bằng miểng ngói miểng sành, chơi u hấp, cút bắt trốn, cất nhà chòi, thả diều, đá dế, đá gà bằng cỏ chỉ, đá cá lia thia, đẩy cây, bắn chim bắn cò, nắn con chim tu hú…

(còn tiếp)