Vào thập niên 80, ở thôn quê Việt Nam không có nước fontaine như Sài Gòn hay thị xã, (nơi mà chỉ cần mở vòi là nước chảy ồ ạt), vậy người dân quê tôi đã sinh hoạt như thế nào? Khi ao hồ, sông rạch nhiều vô số kể, con người đã tận dụng thiên nhiên ra sao? Người viết xin lượm lặt trí nhớ để kể về những nguồn nước tiêu dùng một thời ở miền quê Việt Nam.

Ao làng (do AI của Google vẽ)
Với người dân thôn quê, mẹ thiên nhiên là nguồn sống vô tận. Họ tận dụng tối đa nước mưa, nước sông và nước ao hồ. Những khi Trời hạn hán, nắng dai dẳng, nóng oi bức, ao hồ cũng khô cạn, người dân ở thôn quê rất trông mưa. Hai câu trong bài ca dao “Gọi Mưa” sau đây đủ nói lên nỗi “khổ vì nước“:
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Kìa, Nội tôi mặc áo túi ngắn tay, quần lãnh ống xăn, ống xổ, đang ngồi trên ghế đẩu, cạnh bộ ván nhà dưới, lau mồ hôi thấm đượm trên trán bằng khăn rằn, rồi tặc lưỡi, nói từng chữ, chậm rãi sau cơn thở dài:
Tst.. tst… Trời nóng nực quá đỗi! Ông mưa đám cho mát đi Ông!
Khác xa với đời sống thành thị có nước fontaine, người dân quê tôi phải đi gánh hoặc chở nước từ giếng hay ao hồ, chắt chiu từng giọt, rất ư cơ cực! Nhà ở thôn quê phần nhiều lợp bằng lá dừa nước, nên không thể sử dụng nước mưa để uống hay nấu nướng. Thay vào đó là nước ao, hồ, cùng với nước sông để tắm, gội, giặt giũ.
Những nhà khá giả, có mái lợp tole hay ngói, thường sẽ xây hồ chứa nước. Người dân thường bỏ cơn mưa đầu mùa để cho bụi đất trôi đi hết.Vô mùa mưa, nước của những cơn mưa lớn sau đó thường được hứng vô hồ hay lu bằng máng xối. Nhà Ngoại tôi có một hồ nước cao hơn đầu người. Vậy mà bọn trẻ chúng tôi hay leo lên đó, chơi đủ loại trò chơi dân gian như ô quan, đánh đũa. Đối diện nhà Nội tôi là nhà chú thím Sáu, có cô bạn tên Yến Oanh mà thủa nhỏ người hàng xóm hay gọi tôi với cổ là cặp bài trùng. Tuổi thơ của chúng tôi gắn liền với cái hồ nước nhà chú thím Sáu. Mỗi hồ nước có một nắp đậy ở trên và vòi vặn ở gần dưới đáy, được gắn liền vô hồ và một chỗ được xây âm dưới đất, vừa đủ để đặt một cái xô, hay thùng để lấy nước.

Nguồn: vanhoavaphattrien
Nước mưa còn được chứa trong lu. Nhà ở thôn quê không có của cải, tiền bạc chi cả nhưng lại rất giàu lu. Mỗi nhà có tới mấy hàng lu. Lu nước mưa để ở nhà bếp của Ngoại tôi dùng để uống, có một ca nhôm để trên nắp. Bọn tôi ăn cơm xong, tạt qua lu, tu thêm một bụng nước đầy, kêu ừng ực, no hai lần nên bụng căng cứng, bước đi nghe kêu óc ách. Bọn trẻ chúng tôi thì tinh nghịch, cứ hay bày nhau nhúng bánh tráng vô đó để ăn vặt. Bánh tráng bủn ra, rớt lềnh bềnh, trăng trắng trong lu, báo hại ông Ngoại tôi phải bao lần súc lu!
Uống nước lu lâu lâu gặp phải con lăng quăng loi nhoi, sẵn sàng bơi vào miệng thì thấy ơn ớn, làm người uống phải phun nước ra mà hất đổ ca nước! Mấy con muỗi hay đậu trên mặt nước trong lu, đẻ trứng vô những lu nước mưa vì là nước ngọt, chúng không thèm đếm xỉa đến những lu nước sông (nước lờ lợ) bao giờ. Hàng lu nước mưa nhà tôi chỉ để uống, nấu ăn, hay khách quý từ Sài Gòn về tiêu dùng.
Ngoài nước mưa, nguồn nước thứ hai là nước ao. Hẳn quý độc giả còn nhớ bài ca dao Hạt Mưa Hạt Móc
Tôi ở trên trời
Tôi rơi xuống đất
Tưởng rằng tôi mất
Chẳng hóa tôi không
Tôi chảy ra sông
Nuôi loài tôm cá
Qua làng qua xã
Theo máng theo mương
…
Vậy chớ khinh tôi
Hạt mưa hạt móc.

Nguồn: daohieu.com
Hạt mưa ấy hoà chảy vô mương hay ao, nuôi sống người dân quê chúng tôi. Ao của nhà ông Ba Tôn là nguồn nước chánh của cả làng trên xóm dưới, gồm xóm chợ, xóm bánh và xóm chài. Chiều chiều, nhà nhà trong xóm đi gánh hoặc chở nước về bằng xe đạp. Ao ông Ba đúng với định nghĩa ao làng trong văn thơ. Nó thật sâu, có hình tròn và một thùng câu nước nho nhỏ, cột vào dây thật dài để thả xuống.
Nước câu lên được đổ vô cặp thùng lớn, thả một ít lá bình bát vô để nước không bị tạt ra khi di chuyển, rồi gánh bằng đòn gánh hoặc chở ngoài sau ba ga xe đạp. Nước rỉ ra thành 2 lằn, in dấu xuống đường đất đỏ như làm dấu, chạy dài từ ao làng về tới nhà theo người gánh nước.
Thay vì cặp gióng, người ta sẽ làm cặp móc bằng kim loại để móc, rồi móc vô cặp quai thùng.
Có khi, người dân xóm tôi chở nước lúc trời chạng vạng tối, hay những ngày có trăng thanh, mát mẻ. Những đôi trai gái xóm tôi chắc cũng có không ít kỷ niệm hẹn hò khó quên về thời gánh nước. Vào mùa hè, ao được tàn cây xanh dày đặc, có tàn to bao phủ, nhưng nước ao bốc hơi gần như cạn sát đáy, cùng với việc cất nước, thành thử chung quanh bờ ao tròn vành vạnh, bờ ao nứt nẻ cùng với rễ cây cằn cỗi, đâm ra lởm chởm và phần nước còn lại nằm sâu ở dưới đáy. Vào thập niên 80, quê tôi cũng có nghề gánh hay chở nước mướn. Nhà nào đơn chiếc có thể mướn họ để có nước mà sử dụng.
Nước sông cũng là một nguồn nước vô tận khác, nhưng vệ sinh hay không thì còn phải xét lại. Con sông Vàm Cỏ Tây nuôi người dân quê tôi bằng tôm cá đủ loại, ngoài ra còn cung cấp nguồn nước tiêu dùng. Tôi không hề đùa khi nói rằng “cầu tiêu cũng được làm ngay bên bờ sông”. Thưa phải! Ở xóm tôi, cầu đó được bắc ngay bên bờ sông cái, cạnh cây bần, ngó qua Đức Tân. Những lúc nước ròng sẽ chỉ nhìn thấy sình dưới đáy, nhưng khi nước lớn, con nước sẽ mang ô uế ấy đi khắp nơi, tận những con mương, con rạch, nơi nào nước đến. Cũng cùng nguồn nước đó, người dân xách lên, đổ vào lu hay chậu để lắng cặn và phèn, một thời gian sau sẽ sử dụng được. Nhà Nội tôi sát sông cái nên mỗi ngày, Nội hay sai tôi xách nước khi nước lớn để lóng rồi tắm và rửa chén. Cầu cá tra (bắc trên ao nuôi cá tra) cũng là một cách đi cầu khó quên cho những ai từng sử dụng qua mỗi khi về quê.

Sàn nước, thuyền tam bản và dừa nước (Do AI của Google vẽ)
Nhiều nhà làm sàn nước ngay tại bến sông hay bờ ao. Có lúc, khi đang rửa chén trên cầu sàn nước, tôi nhìn thấy nguyên cả bầy cá bơi tung tăng, đớp những hột cơm rơi xuống. Tôi không hề nói ngoa khi kể rằng người dân xóm tôi phóng uế xuống sông, rửa chén, giặt giũ, đãi đậu, rửa khoai, cũng tại bờ sông, rồi xách nước lên sử dụng cũng như tắm giặt, rửa ráy… Đám trẻ con thì bơi lội, lặn ngụp như rái cá trên sông. Tôi không được nhà cho lội ngoài sông cái, chỉ đứng trên bờ nhìn tụi nhỏ bơi mà thèm thuồng. Có khi, tôi được Mẹ cho đập bùm bũm bằng bập dừa ở trong rạch nhà.
Có người xóm tôi còn thấy cả “thằng chỏng”, là người chết trôi lềnh bềnh trên sông; nghe đâu đàn ông trôi úp, đàn bà trôi ngửa. Mỗi lần như thế, nhà nhà ngưng lấy nước vài ngày. Nước sông này lờ lợ vì sông đổ ra biển tại cửa Soài Rạp.
Người dân thôn quê dùng gáo múc nước trong lu hay khạp thay cho ca nhựa như sau này. Đây là hình ảnh rất thân thương của thủa xa xưa. Gáo được làm bằng sọ dừa. Người ta gọt sọ dừa cho nhẵn nhụi, cưa bỏ đi một phần ba trên đầu, nạo sạch cơm dừa bên trong, nướng khoan sắt để khoan 2 lỗ, vừa vặn với cán, rồi khéo lắp cán vô. Nhà Ngoại tôi thì múc nước bằng gàu mo cau do bà Cố làm. Khi múc nước, ta có thể ngửi được mùi thơm thoang thoảng của hương cau.
Sau đó không lâu, có lẽ vào cuối thập niên 80 hay đầu những năm 90. Xã tôi đào được vài giếng nước bơm tay, một ở xóm chợ và một ở gần kho lúa. Bà con xúm lại bơm rồi gánh hay chở về tiêu dùng. Nước fontaine thì mãi sau này, khi gia đình tôi đi Mỹ rồi, mới có.
Ao làng sâu lắng hồn quê đã nuôi chúng tôi lớn theo tháng ngày. Vùng đất bao la, hiền hòa này cũng đã hun đúc những người con quê chúng tôi thành chơn chất, mộc mạc; một khi bị đời bạc đãi, những người con mang đậm hồn quê này cũng tự lau nước mắt rồi đứng dậy bằng đôi chưn của chính mình, rồi ngang nhiên mà sống. Những khốn khó, cực khổ của ngày xưa mà thế hệ chúng tôi đã trải qua, những giọt nước quê hương đã nấu thành những củ khoai, hột bắp, hột cơm nuôi chúng tôi lớn, cùng với sự dưỡng dục của gia đình, và với sự cố gắng không ngừng của bản thân, chúng bạn đồng cam cộng khổ của xóm tôi ngày xưa cũng đều thành đạt cả! Tôi rất hãnh diện về chúng! Dù chúng tôi đều sống xa quê cả nhưng tình làng nghĩa xóm bao đời nay vẫn thế. “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Xin trân quý từng giọt nước quê hương đã nuôi chúng tôi lớn.
Ngày nay, tôi đã có nước dồi dào nhưng vẫn thấy trân quý từng giọt nhỏ. Cũng xin biết ơn sự nể trọng của chòm xóm về cả 3, 4 thế hệ của gia đình tôi.

Gáo dừa trên khạp nước. (Internet)
ND








