Khu vực Biển Đông, nơi đang có tranh chấp giữa nhiều quốc gia, cũng là nơi được biết có chứa đựng một trữ lượng dầu khí rất lớn và có thể đóng vai trò then chốt trong một cuộc xung đột tương lai liên quan đến Đài Loan.

Cuộc tranh chấp giữa các quốc gia trong khu vực này đã diễn ra từ nhiều thập niên qua, nhưng trong khoảng hơn một thập niên nay thì tình hình trở nên căng thẳng hơn với việc Trung Quốc cho xây dựng một số đảo nhân tạo tại đây rồi công bố chủ quyền, và việc này đã gặp phải sự chống đối của nhiều quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, có một quốc gia cũng đang âm thầm cho xây một số đảo nhân tạo ở Biển Đông mà ít ai để ý tới – đó là Việt Nam.

Trong hơn 4 năm qua, Việt Nam đã xây dựng một loạt các đảo nhân tạo kiên cố trên các bãi đá, rạn san hô và đảo nhỏ ở xa bờ, mở rộng sự hiện diện quân sự của họ tại quần đảo Trường Sa, một quần đảo mà việc chính quyền Hà Nội tuyên bố chủ quyền không chỉ xung đột với Trung Quốc mà còn với Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei.

Theo hình ảnh vệ tinh được một số phân tích gia nghiên cứu về Biển Đông xem xét cho thấy những hòn đảo nhân tạo này được xây dựng từ cát, san hô và đá lấy từ đáy biển lên, hiện đã có một số bến cảng, một đường băng dài 2 dặm đủ sức chứa máy bay quân sự cỡ lớn, kho chứa đạn dược và chiến hào phòng thủ có thể bố trí vũ khí hạng nặng.

Mặt nổi

Ở mặt nổi, xây dựng các đảo nhân tạo này cho phép Việt Nam thể hiện sự có mặt của mình ở quần đảo Trường Sa và cũng được cho là để phản ứng lại trước chiến dịch mở rộng các đảo nhân tạo được xây trên những khu vực đá ngầm và rạn san hô ở cùng quần đảo này của Trung Quốc. Việc Việt Nam quân sự hóa các đảo này vượt xa những gì mà bất kỳ quốc gia nào khác ngoài Trung Quốc đã thực hiện ở Biển Đông, được cho là tuyến đường huyết mạch quan trọng cho thương mại toàn cầu và sẽ là tuyến đường tiếp tế quan trọng cho quân đội Mỹ nếu xảy ra xung đột về Đài Loan.

Xem thêm:   Lời nguyền Nhà Xanh

Hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam đã xây dựng trên tất cả 21 cụm đá ngầm theo cấu trúc địa lý được gọi là bãi cạn khi thủy triều xuống – và khi thủy triều lên thì các rạn san hô trước đây luôn bị ngập dưới nước – mà Việt Nam chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa. Con số này so với 7 hòn đảo nhân tạo tương tự của Trung Quốc đã xây dựng từ nhiều năm qua trong quần đảo này.

Theo Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), tính đến tháng 3 vừa qua, Việt Nam đã xây dựng hơn 2,200 mẫu Anh đất nhân tạo ở Biển Đông, so với xấp xỉ 4,000 mẫu Anh đã được Trung Quốc xây dựng,

Thực tế

Trong hai thập niên 1970 và 1980, Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đoạt của Việt Nam một số đảo và bãi đá ngầm ở Trường Sa và Hoàng Sa, một quần đảo tranh chấp khác ở phía bắc Biển Đông, trong các trận hải chiến với quân đội Việt Nam Cộng Hòa và với quân đội cộng sản Việt Nam.

Gần đây hơn, Trung Quốc đã kiểm soát bãi cạn Scarborough từ Philippines vào năm 2012, làm dấy lên lo ngại trong số các quốc gia khác trong khu vực, bao gồm cả Việt Nam, rằng Trung Quốc có thể làm điều tương tự với họ. Bắc Kinh cũng đã gây áp lực buộc Hà Nội phải ngừng thăm dò dầu khí ở vùng biển mà họ tự tuyên bố chủ quyền và quấy rối cũng như tấn công ngư dân Việt Nam mỗi khi đến đánh bắt cá ở quần đảo Hoàng Sa.

Để có thể minh họa cho các cơ sở mới quan trọng được xây dựng và mục đích sử dụng, người ta có thể nhìn tới Bãi Thuyền chài (Barque Canada Reef), là nơi có hòn đảo nhân tạo lớn nhất và hiện đại nhất của Việt Nam ở Biển Đông.

Xem thêm:   Những vết sẹo...

Các hòn đảo khác do Việt Nam xây dựng cũng có nhiều công trình tương tự, bao gồm bến cảng, kho chứa đạn dược và các tòa nhà hành chính hoặc doanh trại lớn.

Chính phủ Việt Nam chưa công khai đề cập đến việc xây dựng đảo nhân tạo, mặc dù một số giới chức chính quyền có lên tiếng nói rằng họ chỉ tập trung vào việc bảo vệ chủ quyền của mình ở Biển Đông. Lý do có lẽ Việt Nam không muốn gây tranh luận hoặc chống đối từ các quốc gia khác, đặc biệt là từ Trung Quốc.

Tuy nhiên, có điều này đáng chú ý là hải quân Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa tìm cách ngăn chặn các tàu nạo vét của Việt Nam tiếp cận các đảo tiền đồn này. Điều đó trái ngược với những tuyên bố và hành động hung hăng của Trung Quốc đối với Philippines, quốc gia mà các tàu của họ đã nhiều lần bị Trung Quốc chặn không cho vận chuyển hàng tiếp tế đến các địa điểm tiền đồn nhỏ và khiêm tốn hơn của nước này ở Biển Đông.

Theo nhận định của nhà nghiên cứu Khang Vu tại Đại học Boston thì cho rằng sự khác biệt rõ rệt trong cách đối xử nói trên có thể được giải thích bởi mối quan hệ phức tạp hơn giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các công ty Trung Quốc làm chủ hàng nghìn nhà máy sản xuất ở Việt Nam, từ đó họ có thể xuất cảng hàng hóa sang Hoa Kỳ và một số quốc gia khác để tránh mức thuế cao hơn áp đặt đối với hàng được sản xuất ở Trung Quốc. Hai đảng Cộng sản cầm quyền của hai quốc gia cũng đã có những thỏa thuận ngầm về các cách thức giải quyết các vấn đề nhạy cảm, chẳng hạn như khi xảy ra các hành động gây hấn của hải quân Trung Quốc đối với ngư dân Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa thì chính quyền Việt Nam thường làm ngơ không lên tiếng và chờ tình hình lắng dịu lại thì mọi chuyện lại như cũ.

Ngược lại, Bắc Kinh coi Philippines, một đồng minh có hiệp ước an ninh với Hoa Kỳ, là một con bài của Washington, mà sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Biển Đông vẫn bị Bắc Kinh phản đối. Theo ý kiến của một nhà nghiên cứu khác là Lê Hồng Hiệp của Viện nghiên cứu ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore, thì việc Hoa Kỳ, quốc gia đã nhiều lần lên án việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo, đến nay vẫn chưa công khai lên tiếng phản đối những nỗ lực xây dựng của Việt Nam, có lẽ vì Hoa Kỳ coi những hòn đảo nhân tạo của Việt Nam như một bức tường thành tiềm năng chống lại Bắc Kinh nếu có xảy ra xung đột trong tương lai.

Xem thêm:   Thử nghiệm & Răn đe

Bắt chước

Tuy nhiên, hầu như không có phân tích gia nào tin rằng Hà Nội, với lực lượng hải quân và không quân nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc, thực sự có thể bảo vệ được các đảo tiền đồn này nếu xảy ra một cuộc chiến tranh toàn diện. Thế yếu kém tương đối đó của quân đội Việt Nam cũng giúp giải thích tại sao các quốc gia khác trong khu vực hầu hết đều làm ngơ trước việc Việt Nam xây dựng quy mô lớn các đảo nhân tạo như nói tới ở trên. Lý do là vì các quốc gia khác coi việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo thực sự là mối đe dọa trực tiếp đến quyền lợi kinh tế của họ, quyền tiếp cận vùng biển, và cũng là mối đe dọa đến quyền tự do hàng hải quốc tế – trong khi không thấy có mối đe dọa đó từ Việt Nam.

Việc Việt Nam xây dựng đảo nhân tạo nói cho cùng cũng chỉ là bắt chước theo Trung Quốc. Nếu giả dụ một hôm nào bỗng dưng bị Trung Quốc tấn chiếm những hòn đảo nhân tạo này thì có lẽ Việt Nam cũng chỉ dám chống đối qua loa thôi như họ vẫn từng im lặng mỗi khi bị Trung Quốc bắt nạt vậy. Chỉ có người dân vừa mới ho he lên tiếng chống Trung Quốc là liền bị đàn áp ngay lập tức cho thấy sự khiếp nhược của chính quyền Việt Nam.

VH