Không ai có thể chọn được quê quán của mình. Thế nhưng, ông Trời đã ban cho tôi một nguyên quán tuyệt vời để sanh ra và lớn lên cùng với bao kỷ niệm khó quên. Tôi đã gói ghém phần ký ức đó, rời Việt Nam ra đi, và luôn mang theo cả bầu trời quê hương bên mình.

nguồn: vietcetera.com     

Long Trì là một xã của tỉnh Long An nhưng giáp ranh với Mỹ Tho, Tiền Giang. Tiền Giang là miền đất được thiên nhiên ưu đãi và đã sản sanh ra hai hoàng hậu cùng một đệ nhứt phu nhơn: Bà Từ Dụ (hay Từ Dũ), hoàng hậu Nam Phương và bà Nguyễn Thị Mai Anh, phu nhơn của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. Bà Mai Anh đã khởi xướng xây dựng Bệnh viện Vì Dân, sau này là Bệnh viện Thống Nhất.

Long Trì được “ké” chút phù sa sông Tiền, chút ưu ái về con người của Tiền Giang nên cũng được coi là đất rồng nằm. Đó là quê Ngoại của tôi. Mỗi khi nghĩ về quê Ngoại, tuổi thơ dữ dội trong tôi chợt sống dậy với những âm thanh của “dàn nhạc giao hưởng” gồm các nhạc sĩ ếch, nhái, ễnh ương, chàng hiu từng hồi, từng hồi một như khúc nhạc đồng quê… hay hình ảnh bầy trâu nhai cỏ trong cơn mưa lâm râm, bầy cò trắng lượn trên cánh đồng mạ non xanh ngát, hay đồng lúa chín vàng bạt ngàn, nhìn mút tầm mắt, hay những ngày mùa cùng  với bao dụng cụ làm nông quen thuộc như cày, bừa, trục, cuốc, xẻng, nong, nia, thúng, rổ, chày, cối xay lúa, cây rơm, máy quạt lúa, trang cào lúa, cộ và bồ đập lúa…

Bất chợt, trong âm u tĩnh mịch của cõi tâm hồn, tôi cũng nghe loáng thoáng âm thanh đi kèm. Kìa tiếng hát ai thánh thót, văng vẳng, vang vọng lại? Sao ai nghe như Sơn Ca hay danh ca Thái Thanh? Rồi cũng không biết vì sao, nước mắt tôi chực trào…. Có một nỗi nhớ quê hương da diết, không hề nhỏ, đang xâm chiếm lấy tôi…

Mênh mông mênh mông, gánh lúa mênh mông

Lúc trời mà rạng đông ư rạng đông

Dụng cụ làm ruộng Nguồn: Vườn ươm tri thức

Tiếng hát ấy như vang vọng lại gần hơn. Đây là bài Gánh Lúa của Phạm Duy kia mà. (Tôi được biết bài này từng là nhạc hiệu cho chương trình khuyến nông, tăng gia sản xuất trên đài phát thanh Sài Gòn qua làn sóng điện trước năm 1975).  Từng câu của bài hát cũng hiện ra từng giai đoạn của vụ mùa quê tôi. Trong đầu tôi hiện rõ mồn một hình ảnh người nông dân, hơn 32 năm về trước, tại tỉnh nhà Long An. Những người muôn năm cũ chợt ẩn hiện trước mắt, cùng với những dụng cụ làm nông. Nếu trí nhớ này vẫn còn tử tế với tôi, sẽ giúp tôi hồi tưởng lại việc làm nông ngày xưa.

Bóng người thấp thoáng cuối đường thanh vắng

Bước đều mà quang gánh ư nặng vai

Xa xa là hình dáng của một người đàn ông tháo vát, vạm vỡ, chánh hiệu một nông dân miệt vườn đang gánh lúa của Ông Ngoại tôi hay mấy cậu. Hai đầu là hai bó lúa vàng, nặng trĩu hạt, đã được cắt sẵn, so lại cho ngay ngắn, đặt trên cặp gióng, mắc vô hai đầu đòn gánh. Họ đi thật tài, len lỏi qua những bờ ruộng hẹp tí teo. Ông Ngoại gánh lúa về nhà cho trâu bò đạp tại sân trước nhà. Mỗi khi chúng ngừng lại, vảnh đuôi lên là ông kêu tôi lấy cái ky, chạy lại hứng cho lẹ…

Xem thêm:   Những học trò “đặc biệt”

Gánh thóc về, gánh thóc về

Gánh về! Gánh về! 

Rung rinh, rung rinh, gánh lúa rung rinh

Cánh đồng mà xinh xinh, rằng xinh

Lão bà tóc trắng kĩu kịt quang gánh

Môi trầu mà tươi đám cỏ xanh

Sức già mà còn nhanh, còn nhanh

Cấy lúa (Hình Google)

Chợt tôi như nhìn thấy bà Cố với tóc trắng bạc phơ, bước đi thoăn thoắt, miệng nhỏm nhẻm nhai trầu, đang gánh lúa về nhà. Thủy tổ nhà tôi từ Quảng Ngãi vào Nam khai khẩn đất hoang, lập nghiệp. Ông Cố có vóc người tầm thước với khuôn mặt cương nghị và đôi mắt sáng đầy khí chất thông minh. Thuở nhỏ nhà nghèo, ông không được đến trường, muốn học một chữ thôi, phải cắt đầy một gánh cỏ cho nhà giàu, ấy vậy mà sau này ông có thể đọc báo và thơ từ.  Không biết ông đã gánh bao nhiêu gánh cỏ oằn trên đôi vai xương xẩu ấy. Ông luôn dạy con cháu điều hơn, lẽ thiệt.  Tư cách, đạo đức và cả kiến thức của Cố là có một không hai ở một nơi “khỉ ho cò gáy”; chòm xóm đa số đều nể trọng. Mẹ tôi kể mỗi buổi sáng Ông Cố uống trà là lúc Ông nói về đạo làm người, về lễ nghĩa cho các cháu nghe.

Nông dân quê tôi thường làm lúa vào vụ Mùa, Đông Xuân, và Hè Thu. Muốn vụ mùa bội thu, người nông dân phải chọn giống tốt, ít bịnh tật, có năng suất cao. Kế đến là việc chuẩn bị đất: cày sâu để lấy lớp đất ở dưới.

Bao đời nay, trước khi nông thôn Việt Nam được cơ giới hóa, nông dân thường dựa vào sức con trâu mộng to khoẻ, để kéo cày hay trục. Cần trục có răng nhỏ, đều, để san và làm tơi đất. Cần trục lăn tới đâu rẽ nước tới đó, và cá cua sẽ ngoi đầu lên thở vì ngộp bùn. Đám trẻ quê tôi hay xách đục, chạy theo sau để bắt.

Kế đến, tới giai đoạn gieo hạt, gieo mạ. Người nông dân cầm thúng rồi rải đều hạt lúa nảy mầm trên mảnh ruộng sau khi thóc được ươm, ủ và tưới nước dưới một lớp nylon trùm kín.  Mạ lớn một chút, sẽ được nhổ lên rồi cấy ở một thửa ruộng khác.

Sạ (không phải ủ mầm) sẽ tiết kiệm được thời gian và nhân công.  Khi sạ, để mặt ruộng ươn ướt cho lúa mọc mầm, nhưng khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh, trổ bông, chín sữa thì để nước ngập. Giai đoạn chăm sóc bao gồm: tưới nước, bón phân, nhổ cỏ dại, cắt tỉa, sẽ giúp cây lúa phát triển khỏe mạnh và năng suất cao. Chợt tôi thấy xa xa trên thửa ruộng xanh màu mạ non điểm màu áo trắng của Cậu Năm tôi, đang xịt rầy với bình inox sáng choang.  Cũng cần chuẩn bị hệ thống tưới nước: gầu dây hoặc máy bơm nước, để lấy nước từ kênh lên ruộng cao hơn.

Xem thêm:   Nam thừa, nữ thiếu

Sau đó, những nhà khá giả mua máy bơm nước, có ống bơm dài làm bằng cao su như vỏ xe hoặc máy đuôi tôm. Ông Ngoại tôi có mua một máy lớn để bơm ruộng nhà và bơm mướn. Một thời gian sau, lúa sẽ lên đòng (hay làm đòng), là giai đoạn trổ bông và quyết định năng suất lúa.

Trâu đang trục đất (hình Google)

Giai đoạn cuối là thu hoạch: dựa vào màu sắc, nhánh lúa, độ chín của hạt lúa vàng đều hoặc nâu đậm, bắt đầu rụng tự nhiên, người nông dân biết đã đến lúc gặt và đem lúa về nhà.  Nhưng trước khi chứa trong bồ hay bao bố còn phải qua bao công đoạn gian nan khác.

Ngày xưa tại miền Nam, chủ đất thường bao nhơn công ăn.  Ở nhà Ngoại tôi, Dì Tư được phân công ra đồng còn Mẹ phụ Ngoại nấu ăn cho nhơn công. Công mạ ăn trưa; công cấy thì ăn sáng; công đập được trả công bằng lúa. Công cắt mang bao tay làm từ áo dài tay cũ để không bị lá lúa cắt. Có khi cắt xong chưa kịp đập, Ông Ngoại tôi phân công mấy cậu ngủ tại ruộng để giữ lúa.

Thóc bà phơi nắng, lúa nhà tôi gánh…

Lúa đập xong sẽ được gánh về nhà để phơi. Những lúc trời chuyển mưa, oi bức, mây đen xám xịt kéo về, bất chợt, tôi nghe tiếng Cố hô to:

– Trời mưa, xúc lúa vô bây ơi!  Mau lên!

Thế là cả nhà, có cả hàng xóm xúm lại, già trẻ bé lớn kéo ra sân, thúng lớn thúng nhỏ, người cào, người quét, người bưng chạy vô nhà, đổ thành đống lên sàn gạch nhà trên.

Sân phơi lúa nhà nào khá thì tráng xi măng, nhà nào nghèo thì tráng phân trâu trên sân đất mà phơi (để lúa không rơi xuống kẽ). Nhà nào không có gì thì phơi trên trục đường tráng nhựa trước nhà. Cứ vài tiếng đồng hồ, có người ra “cày lúa” bằng chưn đất, một hình thức trở lúa lên cho khô đều.

Khi lúa khô, người nông dân phải phân loại lúa chắc và lúa lép bằng cách bỏ vô máy quạt lúa mà quạt. Nhà ai không có máy phải rê bằng tay. Một người cầm chiếc chiếu xếp đôi, kẹp giữa hai chưn, quạt, một người cầm thúng lúa, đứng trên gió, đổ lúa xuống. Những hạt lúa lép sẽ bay qua đống kế bên, lúa chắc rơi tại chỗ.

Hình rê lúa, Nha Trang (nguồn: Artcorner)

Thu hoạch xong, vào mùa khô, nhà nào làm nấm rơm hay có trâu bò thì đem rơm về chất thành cây, bằng không sẽ được đốt. Mùi rơm rạ thơm nức cả mũi. Khói lam chiều xám xịt cả một vùng trời. Đốt cũng để trừ khử bịnh dịch, chuột hay tạo lớp đất mùn cho mùa sau. Rơm rạ khô khi đốt thơm mùi rất đặc biệt. Với tôi, mùi ấy là mùi quê hương. Đã 32 năm sống xa quê, khi bất chợt gặp một clip đốt đồng, khói bay mù mịt, tôi có thể nhớ rõ mồn một mùi hương thơm tho của rạ… Có lẽ, tôi sẽ không còn được ngửi lại mùi khói đốt đồng đậm hồn quê hương này. Chợt khoé mắt tôi cay sè, cổ nghèn nghẹn đắng…

Xem thêm:   Dubrovnik & những ám ảnh tái sinh

Lúa để bán thì kêu những người “làm bao”.  Làm bao” chỉ việc đóng gói lúa, đong lúa bằng thùng quan rồi vô bao, may miệng lại. Thời xa xưa, phương tiện chở lúa chỉ có ghe, đi theo con nước. Làm ruộng không hề khá giả, lúa cũ đổi lấy lúa mới mà ăn. Thất mùa là giống như đánh bài vậy.

Sau hết, lúa để ăn được chứa trong bồ. Bồ lúa nhà Ngoại tôi cao hơn đầu bọn trẻ tụi tôi. Những lúc chơi trốn kiếm, nhứt là lúc bồ gần cạn, bọn tôi hay chui vô; đang trốn mà chẳng may bị xót, ngứa, gãy kêu sồn sột, chẳng khác nào “lạy ông, tui ở bụi này”.

Mùa lúa bao đời trên đồng ruộng Long Trì, Long An nay đã là dĩ vãng, chỉ để con người hoài niệm. Ngày nay, chỉ còn có thanh long hay dừa. Thanh long cũng một thời giúp người nông dân sớm phát tài, nhưng có lúc cũng làm họ điêu đứng vì Trung Quốc không thu mua. Có khi, họ phải đổ bỏ hàng tấn thanh long. Một người cậu cho tôi biết nếu không ai trồng lúa, duy chỉ có ruộng mình thì chim cò sẽ kéo tới ăn hết!  Đành theo thời cuộc vậy!

Than ôi, công việc làm nông ngàn đời vất vả, cơ cực.  Thương người nông dân quê tôi nói riêng và nông dân Việt Nam chân lấm tay bùn, cày sâu cuốc bẫm nói chung. Thương sao những người nông dân lam lũ!

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”

(Ca dao)

Người Nhựt Bổn có câu thành ngữ: Cây lúa chín là cây lúa cúi đầu. Văn hóa cúi đầu của họ chắc cũng bắt nguồn từ đây. Qua bao phong ba bão táp của cuộc đời, tôi luôn tự nhắc mình sống như cây lúa. Lúa càng chín muồi, càng no đủ, đầy đặn thì càng cong xuống, cũng như con người càng trưởng thành, càng có nhiều thành tựu, tài năng thì càng sống khiêm nhường, biết lắng nghe và tôn trọng người khác.

(Viết trong niềm hoài hương. Người viết đã sống xa quê hơn hai phần ba đời người, nên gom góp ký ức vụn vặt, mong các bác nông dân thương tình bỏ qua cho!)

Nông dân Huế bên máy quạt lúa năm 1929.

ND