Dự định ban đầu chúng tôi chỉ ở Bidong một đêm, sau đó về lại Terengganu dành một ngày đi thăm thành phố êm đềm này rồi chờ Toàn từ Bidong ra, chúng tôi sẽ cùng phiêu lưu miền nam Thái Lan và về Việt Nam từ Bangkok.
Thế nhưng khi ra đảo, chúng tôi quyết định ở thêm một đêm nữa.

Biển khu C đảo Bidong nhìn ra đảo Cá Mập
Mở cửa nhìn thấy biển rất gần nhưng tôi không dám ra biển một mình lúc trời còn tối dù tôi rất thèm. Trời vừa hé sáng tôi xuống biển để lội nước. Một người ngồi bất động nhìn ra biển từ khi nào. Tôi đi thật nhẹ như sợ tiếng bước chân của mình làm ảnh hưởng đến dòng suy tưởng của người ấy. Bất cứ ai đến Bidong đều có ký ức của riêng họ, vui buồn, hạnh phúc, đớn đau… Tôi phải tôn trọng sự riêng tư quý báu này.
Dần tỏ mặt người, từ dưới biển nhìn lên căng-tin, vài người trong nhóm ngồi im lặng với ly cà phê nhìn ra biển. Bí mật tuyệt đối của con người là suy nghĩ, không ai có thể đọc hay (chủ quan cho rằng) nắm bắt được ý nghĩ người khác. Những người ấy nghĩ gì làm sao tôi biết được.

Pulau Bidong từ biển nhìn vào
Sau bữa điểm tâm, chúng tôi thuê cano chạy vòng quanh hai đảo Cá Mập và Bidong. Một người nói rằng thời ở Bidong, mỗi ngày ngồi ở bờ biển nhìn ra đảo Cá Mập, anh chỉ ước ao một lần qua bên đó. Tay lái tàu nói với chúng tôi Cano không chạy được vòng quanh hai đảo vì sóng lớn, có nghĩa là chỉ qua một phần rồi quay lại. Vài người chỉ cho tôi tên gọi những bãi biển: A, C, F, G, bãi buôn lậu… Tôi có ghi hình đầy đủ nhưng giờ hỏi tôi hình này khu biển nào có lẽ tôi khó trả lời chính xác.
Tôi thích nhất tấm hình tôi chụp từ ngoài biển nhìn vào đảo, hai tượng Phật Di Lặc và Phật Bà Quan Âm trên một trục thẳng, trông thật bình an. Hôm ấy vì sợ ướt máy hình, tôi chụp bằng điện thoại nên không nét khi zoom xa. Thật là tiếc!

Nhìn từ biển vào
Tôi lại nằm võng ở khu A, tận hưởng biển, chờ cơm trưa và ngẫm ngợi. Tôi nhớ thời học đại học. Lớp ban đầu sĩ số 43. Khi bảo vệ luận án tốt nghiệp còn chưa đến hai mươi. Con số trừ ra là đi vượt biên. Hồi đó, lâu lâu lại thấy lớp “bốc hơi” vài người. Có người không đi được, quay trở lại lớp học khai bị bệnh quai bị, nghỉ học vì sợ lây bệnh cho cả lớp, mọi người cười ồ. Chúng tôi “định nghĩa” bệnh quai bị là xách cái quai với cái bị đi vượt biên.

Trên đường đến khu F
Thời gian dần trôi, nhờ có Internet bạn bè tìm gặp lại nhau. Trên mạng và ngoài đời. Chuyện xưa kể lại ngậm ngùi. Trên dòng chảy lịch sử, Pulau Bidong không xa lạ với thế hệ chúng tôi, người đi – kẻ ở, biết bao buồn – vui, được – mất. Tôi nhớ những câu chuyện người may mắn đi “cái ót” đến Bidong; có bạn bước chân lên Bidong như cái mền rách, chậm một chút là bỏ xác, trên người chỉ còn cái quần đùi tơi tả vì bị bão và bị cướp. Thời không tiền, chiều chiều leo lên ghềnh đá biển khu C, hóng gió, nghe nhạc ké mấy quán cà phê. Kỷ niệm Bidong kể bao giờ cho hết!

Đài Đức Mẹ
Còn nhiều những câu chuyện bi thương khác nữa… quá dễ dàng tìm đọc trên mạng trong thời thế giới phẳng này!
Mười một năm Bidong cưu mang thuyền nhân đủ để phải chấm dứt việc người chết trên biển hay đến nơi còn bị thanh lọc trả về (1). Những chương trình ra đi chính thức sau đó cho những ai đủ điều kiện là điều hợp lý.

Nghĩa trang khu F
Sau bữa cơm trưa chúng tôi lên lại Ðồi Tôn Giáo và qua khu F thắp nhang ở nghĩa trang.
Rừng nhiệt đới tháng Ba hanh khô và nóng. Lớp lá dày gãy giòn lạo rạo dưới chân. Những tấm bảng ghi lại vị trí các khu sinh hoạt, trường học… của một thời Bidong dang tay đón người Việt. Tôi không có ký ức như những người đi cùng nhưng cảm xúc có lúc đẩy lên cao khi nhìn thấy những bông hoa giấy hồn nhiên hồng rực trong nắng, hoa mướp vàng đến bâng khuâng. Hòn đảo có một thời đông đúc, là đất mẹ thứ hai của thuyền nhân Việt Nam, giờ chỉ còn tiếng lá hát, tiếng cây cỏ chuyện trò… với ngàn năm sóng vỗ.

Ghi dấu
Nghĩa trang trên đồi, những ngôi mộ không bị tàn phá bởi thời gian. Cùng với mọi người, tôi thắp nhang, làm dấu Thánh Giá và đọc kinh. Tôi nói lời tạm biệt những người không may mắn nhưng vẫn còn may mắn hơn nhiều phận người nằm dưới đáy biển sâu. Tôi tạ ơn Chúa đã cho tôi có sức khỏe thực hiện chuyến đi này, để ngẫm ngợi, suy nghĩ và ghi chép lại.
Thả mình vào làn nước biển chiều trước khu nhà nghỉ. Tôi thường không nghĩ ngợi gì khi bơi, chỉ là cảm giác tận hưởng như được biển vỗ về, xoa dịu.

Di tích Sick Bay
Bữa cơm chiều thật ngon. Một người trong nhóm đặt nhà bếp một con cá thật lớn đánh bắt từ dưới biển lên lúc chiều. Thật khó quên món ăn ngon đến vậy sau mấy ngày lang thang từ Kuala Lumpur đến Bidong. Vẽ miếng cá chiên giòn, tôi hình dung cái chảo chiên phải thật to và ngập dầu. Còn nước sốt thì tôi không đoán ra công thức chế biến như thế nào!

Sinh viên đang học lý thuyết về lặn
Tôi nói chuyện với người quản lý tên là Man. Man bảo, khách Việt Nam đến đây mỗi năm chỉ khoảng 5% mà thôi. Ða phần là sinh viên trường đại học thực hành chương trình học lặn, khách du lịch và những người đam mê lặn biển… Man cho biết, anh có một người bạn Việt Nam, biết nói tiếng Malaysia, cô ở Terengganu, nếu khách Việt Nam đông và có yêu cầu, anh sẽ vời cô sang đảo nấu món ăn Việt Nam cho đoàn.

Nơi ở của những người lặn (biển khu C)
Hôm ấy có nhóm sinh viên một trường đại học đến Bidong học lặn. Buổi tối họ hát karaoke nhạc xập xình, nhưng có lẽ vì mệt, tôi thiếp đi không biết tiếng nhạc ngưng khi nào!
Sáng ngày thứ ba tôi ra biển rất sớm, tôi phát hiện một mùi hương đưa từ rừng khi nồng nàn, lúc nhẹ thoảng. Như mùi một loại tinh dầu quen mà lạ, tôi không biết là mùi hương của cây hay hoa và cũng không biết hỏi ai.

Thực hành lặn
Chúng tôi tạm biệt Bidong với nhiều cảm xúc ngổn ngang sau khi chụp hình lưu niệm cùng nhân viên trên đảo. Những bàn tay vẫy những bàn tay. Ðảo nhỏ xa dần. Tôi chỉ là khách, làm sao tôi thấu hiểu cảm xúc của những người đã từng được Bidong cưu mang. Tôi nghĩ đến những bia tưởng niệm trên đảo ghi dấu nơi nằm lại nơi xứ người của những phận đời không may mắn. Họ nằm đó, thiên thu trong tiếng sóng biển xoa dịu nỗi đau và hoài vọng về cố hương.

Tạm biệt Bidong
Ðể kết thúc bài viết, tôi chép lại một đoạn ngắn trong văn bản in trên biểu tượng của đảo Pulau Bidong: “Two hundred twenty seven VBP made up the last group to be moved to Sungai Besi Camp Kuala Lumpur. This camp was assigned as the Temporary Transfer Center on 15 November 1991. Since then, the once cramped island which had become a temporary motherland for the VBP was again quiet and desrted”. (2)

Di tích con tàu ma
ĐTTT
(1) Thuyền nhân VN đã đến Bidong từ sau ngày 30/4/1975, nhưng đến ngày 8/8/1978 Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn (UNHCR) mới có chính sách chính thức thừa nhận thuyền nhân và cho ngân sách lập trại. Đến ngày 14/3/1989, tất cả thuyền nhân đến Malaysia, đều phải trải qua một cuộc thanh lọc để xác định tư cách tị nạn do UNHCR và chính quyền sở tại thực hiện. Những ai vượt qua cuộc thẩm vấn (đậu thanh lọc) thì sẽ được đi định cư nước thứ ba tuỳ theo diện của họ. Những người bị rớt thanh lọc được quyền khiếu nại bằng văn bản, nếu rớt đợt 2 này thì phải hồi hương về Việt Nam. Chương trình thanh lọc này như một bức tường để ngăn chặn làn sóng vượt biên của người Việt Nam. Khoảng 9000 người với hồ sơ không được giải quyết bị buộc trở về Việt Nam.
Nobel hòa bình năm 1981 được trao cho UNHCR vì các hoạt động, việc làm hữu hiệu và không ngừng đối với người tị nạn trên thế giới.
Pulau Bidong chính thức đóng cửa từ ngày 30/11/1991.
(2) “Hai trăm hai mươi bảy VBP là nhóm cuối cùng được chuyển đến Trại Sungai Besi Kuala Lumpur. Trại này được chỉ định làm Trung tâm Chuyển giao Tạm thời vào ngày 15 tháng 11 năm 1991. Kể từ đó, hòn đảo chật chội một thời đã trở thành quê hương tạm thời của VBP trở lại yên tĩnh và vắng vẻ.”
VBP: Vietnamese Boat People