Võ Hoàng là một nhà văn trẻ nhiều hứa hẹn và là nhà văn dấn thân vào cuộc chiến sinh tử sau khi CS chiếm Miền Nam 1975. Anh đã sang tới Mỹ rồi dấn bước lên đường tìm về Việt Nam tiếp tục cuộc chiến đấu. Thương ơi, Võ Hoàng đã ngã gục dưới trời Hạ Lào ngày 28 tháng 8. 1987, để lại vợ trẻ và ba người con. Chúng ta kính trọng và cảm thương anh biết bao. Không. Anh không bao giờ chết. Trong lòng tôi. Trong lòng bạn. Trong lòng mọi người ở đây.
Ngày nào Nguyễn đã có thơ cho anh:
Tâm khúc cho một nhà văn
hãy đập vỡ tiếng cồng
đêm. màu da nhiệt đới
mùa hạ huyền
mặt trăng. đỏ. trong khu rừng cháy
và hãy nhớ. ở một nơi nào. những hàng cây thốt nốt.
yên lặng. dưới trời
và nắng
mắt thuyền độc mộc. trên sông
dòng xanh trôi màu lá huyễn
những họng súng chong. chiều. bầy chim
đầu trọc bay. bay rợp đồng người
măng đầu mùa. như trăng. sao chẳng ngọt
mà đường về. hoa ác. đong đưa
khi tôi nghĩ đến anh. và viết
võ hoàng
mường tượng thấy
người đứng trên đồi lau
nhìn về một xóm khuất
có tiếng gà gáy
trăng lên. trong rơm rạ
cũng chợt như vừa nghe. cơn giông
trên một cánh rừng. những lằn chớp xanh. rạch
nát mặt người
ai về. hàng cây bật khóc
mưa trên những mái gồi
mùi của đất. ngàn năm
lúc đó. đêm nguyệt tận. cuối cùng
cho một khúc ca
ngồi bên đống lửa
đọc lại những tờ bản thảo
đâu nắng vàng dưới trời yên bái
và mưa nhã nam
những đầm bông súng hồng tay em. hàng thùy
dương sóng xa. biển và đất nước
người du sĩ bật đứt dây đàn
máu chảy trên những thành phố
ôi. măng đầu mùa. như trăng. sao chẳng ngọt
mà đường về. hoa ác. đong đưa
thế kỷ. người cày những cánh đồng chết
người đuổi người. đi về biển xa
khi tôi ngồi nghĩ đến anh. và viết
võ hoàng
những hàng thốt nốt. dưới trời. yên lặng
vẫn yên lặng
những dòng kinh trên lá. đã khô
và nắng rã. tàn phai. không bóng người
không bóng người
trăng. như tôi. khóc
võ hoàng ơi
NXT
Trong buổi lễ tưởng niệm tổ chức tại San Jose, ngày 26 tháng 8, 2001, con trai út của nhà văn Võ Hoàng là Võ Hoàng Nguyên Kha phát biểu: “Thưa các bác, chúng con đã xa cha khi còn nhỏ, chưa được nhìn rõ mặt cha một lần. Khi lớn lên, chúng con hỏi mẹ rằng cha đi đâu mà không thấy về.” Chị Ðỗ Kim Hương, vợ Võ Hoàng, cảm động nhắc lại: “Vào năm 1984, anh ngỏ lời cùng tôi về quyết định dấn thân vào đại cuộc đấu tranh. Tôi vô cùng đau buồn thương tiếc số phận ngắn ngủi của anh, nỡ ra đi khi đàn con thơ dại đang cần sự dạy dỗ của anh.” Nhưng chị nói: “Tôi hãnh diện…” Nhà báo Lâm Văn Sang, khi thuật lại những việc trên, đã viết: “Tôi biết người đàn bà đó, tuy không biết rõ như tôi biết Võ Hoàng. Bà cũng đã chiến đấu trong tư thế của mình, một mình, trên một đất nước xa lạ, thay chồng nuôi ba người con nên người. Kha năm nay đã vào đại học.”
Lê Thị Huệ cũng đã có thơ cho Võ Hoàng
Võ Hoàng, nhà văn:
kẻ dám sống trước nhân vật
Ði đi anh
nào phải chúng ta là kẻ ra đi một mình
sa trường đã ngập lụt
máu và nước mắt
triệu triệu tiếng chân người đồng hành hoặc tất cả chúng ta cùng sống
hoặc tất cả chúng ta cùng chết
Ði đi anh
có em sẽ chờ anh nơi bờ đê
mùa gió lên rơm rạ nở đầy trời
mảnh đất đã thấm đẫm oan khiên
vẫn thơm mùi lúa khoai mới gặt
em sẽ vốc lấy một nhúm và buộc chặt
vào bâu áo
làm bùa chú tặng anh
có anh linh của người nằm xuống
có bóng hình của kẻ đang sống
chỉ còn niềm tin này
là bùa hộ mệnh của đôi ta
những lân tinh hào sảng của nó
sẽ thổi hết đài đài búa liềm
sẽ bẻ cong quặp hết những gọng súng
thắt nơ đỏ
chúng ta phải tin và phải tin
vào mặt đất
đầy bùa phép của chính nó
thổi dạt hết thảm họa này
kế tiếp thảm họa nọ
LTH
Còn nhiều người nữa viết về Võ Hoàng. Chúng ta sẽ tiếp tục trong một kỳ tới nha các bạn.
N&BH
Tiểu sử
Phần tiểu sử Võ Hoàng ghi dưới lấy từ website Nhân Văn và do nhà văn Tưởng Năng Tiến cung cấp, được đăng trên Phố Văn số 12 tháng 9, 2001.
Tên thật Võ Hoàng Oanh. Sinh 1952 ở Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
1974: Gia nhập Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.
1975-1976: Tù cải tạo.
1978: Vượt biển, đến Úc.
1979: Định cư ở Hoa Kỳ.
1980-1981: Cộng tác viên báo Đại Dân Tộc của Hà Túc Đạo và tạp chí Việt Nam của Vũ Thế Ngọc.
1982: Cùng với Tưởng Năng Tiến, Thượng Văn, Lý K. Hồng chủ trương tạp chí Nhân Văn ở San Jose.
1983: Gia nhập Mặt Trận ông Hoàng Cơ Minh.
1984: Về Thái Lan, Đông Dương.
1984-1987: Uỷ viên chính trị cấp Kháng Đoàn.
1986: Tổng Thư Ký Hội Văn Nghệ Kháng Chiến.
Mất ngày 28 tháng Tám 1987, tại rừng núi Nam Lào.
Tác phẩm
– Măng Đầu Mùa, truyện ngắn, cùng viết với Tưởng Năng Tiến, Nhân Văn xuất bản 1982.
– Trong Lòng Cách Mạng, truyện ngắn, Nhân Văn xuất bản 1983.
– Góc Bể Chân Trời, truyện dài, Nhân Văn xuất bản 1983.
– Đất Lạ, truyện ngắn, cùng viết với Tưởng Năng Tiến, Hương Quê xuất bản 1984.