“Anh hùng mưu sự chẳng nên

Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời!”

(Tâm Sự Người Bại Tướng.)

Bài Tâm Sự Người Bại Tướng không phải của TT. Ðỗ Kế Giai, mà là của Hòa thượng Tuyên úy Phật GiáoThích Giác Hoa, một bạn tù của Tướng Giai ở trại Thanh Phong.

Cùng với anh Thái Hóa Lộc, chủ nhiệm tuần báo Người Việt-Dallas, chúng tôi đến thăm Thiếu  Tướng Ðỗ Kế Giai vào một chiều Chủ Nhật mùa Ðông tháng Chạp năm 2015, tại “Pleasant Valley Healthcare and Rehabilitation Center, 1525 Pleasant Valley Rd., Garland, TX 75040.”

Trong lúc trò chuyện, nhắc lại một vài kỷ niệm ngày xưa và thời gian bị tù đày, Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai, sau một lúc im lặng như lắng sâu vào kỷ niệm, đã đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ dài, mô tả câu chuyện của một con “hổ nhớ rừng,” tâm trạng một vị tướng trận mạc ngày xưa, thất thế bị tù đày.

Bài thơ dài 65 câu, lời thơ đầy bi phẫn, xót xa của một tướng lãnh thất trận và là của một người tù không bản án, vô vọng không có ngày về.

Chỉ trong vòng mười lăm phút, ông đã đọc đi đọc lại cho chúng tôi nghe bài thơ này ba lần, chứng tỏ trí nhớ ông còn tốt, nhưng chúng tôi cũng cảm nhận ông đã đi vào thời kỳ lú lẫn. Ông nhớ lại cả một bài thơ dài, nhưng ông đọc lên trong trạng thái  vô thức, không cần biết là đọc cho ai nghe, hay để lần về những kỷ niệm của ông!

Tác giả và Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai 

Anh Thái Hóa Lộc cho tôi biết, thời trai trẻ, ông không quen biết Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai, nhưng mấy năm gần đây, khi biết tin vị Tướng này phải vào nhà dưỡng lão, gần nơi anh ở,  anh đã thường vào thăm ông, mang thức ăn cho ông, và lần nào, anh Lộc cũng nghe ông đọc bài thơ này. Theo lời anh Thái Hóa Lộc, Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai Ông đã làm bài thơ này trong thời gian ở tù ngoài Việt Bắc và ghi nhớ trong đầu, đọc đi đọc lại nên thuộc nằm lòng, từng câu, chữ một.

Lần này có mặt tôi, người mới đến thăm ông lần đầu tiên, ông cũng đọc cho chúng tôi nghe bài thơ này. Trong khi Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đọc đi đọc lại bài thơ viết trong nhà tù Việt Bắc, chúng tôi đã ghi âm lại và chép ra để các chiến hữu và độc giả hiểu được phần nào tâm sự của ông, một vị tướng già, thất trận đang sống những ngày cuối cùng xa quê hương, lẻ loi trong một nhà dưỡng lão xa lạ trên đất khách.

Vì bài thơ quá dài, nên khi về lại California, tường thuật lại chuyến đi thăm Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai ở Dallas, tôi chỉ trích lại một đoạn trong bài thơ dài để đăng lên Nhật báo Người Việt ngày 23 tháng 12-2015.

Nguyên văn bài thơ dài 65 câu như sau:

Tâm Sự Người Bại Tướng

 

Hoàng-hôn xuống, khi nắng chiều lịm tắt,

Ðời đau thương, khi tràn ngập màu tang. 

Một triệu tinh binh Tướng Tá kiêu hùng,

Thành trì vững, Quân nhiều không giữ được. 

 

Lỗi tại ai? có phải vì thời cuộc?

Tại ý Trời, hay ý của Dân-sinh? 

Tại  các Tướng cầm đầu hay tại người chiến binh?

Không tận-tụy, hy-sinh vì Tổ-Quốc?

 

Thế giặc mạnh, lan-tràn theo chiến cuộc,

Ta đau lòng, vận nước quá lâm nguy!

Chiến hay hòa, giải-pháp hay chạy đi,

Ðều tan vỡ mộng lòng theo ảo-ảnh!

 

Giờ Việt Bắc, thân tù giam ngục lạnh,

Khổ lưu đày, cô quạnh núi rừng hoang.

Nhớ nhung như, hổ nhớ núi non ngàn,

Sầu uất khí, hùm thiêng đành bó gối.

 

Cơn bão tố, đại bàng mang cánh gãy,

Sống ê chề, giãy giụa đầy đau thương.

Nhớ trời xanh, bay vượt mấy từng không

Nhớ biển cả, thuở lượn vòng đây đó.

Nay, biệt giang hồ nằm trong ủ rũ,

Ðói giày vò, nhục nhã lũ người khinh.

Nỗi khống chế, miếng ăn tồi lấp lửng,

Án tử hình, đâu phải án tù binh

 

Ðường trần thế, muôn nghìn tai nạn,

Khốn khổ tù muôn vạn gian truân. 

Công danh như giấc mộng tàn,

Nỗi sầu mất nước, nỗi tan tình nhà!

 

Sống dở sống, ta nào tha-thiết,

Tự sát mình, thì thiệt người sau

Thân không dần đánh mà đau,

Người không giết bỏ, giết sầu độc chưa?

 

Trăng lạnh mờ sương khuya,

Hồn chơi vơi lạc lõng,

Trăm mối sầu cô động,

Trong thảm cảnh nhà giam!

Chao ôi , Trời ơi, dân Việt lầm than!

Vì chủ nghĩa “Lê-Nin, Các Mác,”

Nhiều người đã thác,

Bởi Cộng-Sản tà gian!

 

Tiếng kêu hay tiếng khóc than?

Tiếng rên thảm-thiết muôn ngàn đau thương!

Ai đem đày đọa ngục đường?

Cho thêm đói rét, cho nguồn hờn căm!

 

Thấy cửa đóng như sắt đè nặng ngực

Nghe tiếng cài then, như búa trúng đầu rêm.

Nghe tiếng khóa cửa như ai rức nhói trong tim,

Ðầy tủi hận, buổi vào buồng giam lại.

Trong song sắt nhìn ra ngoài,

Bầu trời xanh, thu hẹp lại.

Ngục tối mấy ngàn đêm rồi,

Không thấy được những vì sao!

Trong cửa sổ nhìn ra ngoài,

Lũ Công an qua lại.

Nghe như giẫm tim mình,

Làm hồn ta tê tái.

 

Ý thức hệ Miền Nam kiếp nạn,

Bảy năm cố quốc dạ nào quên.

Không xoay thế cuộc anh hùng lụy,

Hào kiệt ngục trung nợ nước đền!

 

Anh hùng mưu sự chẳng nên,

Cúi xuống thẹn đất, ngước lên thẹn trời.

Mài gươm rồi để hận đời,

Chôn vùi thế hệ, lụy người tù chung!

 

Van thế nhân xin đừng trách nữa,

Lỗi lầm này hãy sửa sai chung.

Ðem xương máu học bài đắt giá,

Chi đem thành bại luận Anh Hùng.

 

Việt-Thương-Nhân

Việt Bắc K 2 Thanh Phong, Thanh-Hóa

Mùa Đông 1982.

Hòa Thượng Thích Giác Hoa

Sau khi tờ báo có đăng bài thơ “của Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai” phát hành được vài ngày, tôi nhận được điện thoại của một vị Hòa Thượng ở Tổ Ðình Minh Ðăng Quang, trên đường Westminster, cho biết là ông cần gặp tôi về bài thơ ghi lại trong bài phóng sự của tôi đăng trên báo Người Việt cách đây vài ngày.

Hòa Thượng Thích Giác Hoa đã cho tôi xem một tờ tuần báo cũ có tên là Chân Nguyên, số 33&34, phát hành vào tháng 4-1998, trong đó có đăng một bài thơ dài, nhan đề là “Tâm Sự Người Bại Tướng,” bài thơ mà tôi đã trích đoạn để đăng lại trong bài báo của tôi, và ghi đó là sáng tác của Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai.
Bài thơ ghi tên tác giả là Việt Thương Nhân, tức Hòa Thượng Thích Giác Hoa, người đang nói chuyện với tôi. Ông cho biết ông là một Tuyên Úy Phật Giáo, bị tù tập trung cải tạo, đã có thời gian ở trại Hà Tây và Nam Hà chung với 28 vị Tướng Lãnh VNCH.

Trong lúc gần gũi sinh hoạt với các vị Tướng Lãnh trong các trại tù này, ông đã quen thân với Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai. Cám cảnh với đời sống “hùm thiêng sa cơ” của các vị Tướng Lãnh, Việt Thương Nhân đã làm một bài thơ dài, viết thay cho tâm trạng của những vị tướng thất trận bị lưu đày:

“Giờ Việt Bắc, thân tù giam ngục lạnh

khổ lưu đày, cô quạnh núi rừng hoang

nhớ nhung như, hổ nhớ núi non ngàn

sầu uất khí, hùm thiêng đành bó gối!”

Những lúc rảnh rỗi sau giờ lao động, Việt Thương Nhân và Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đã có dịp gần gũi, tâm sự với nhau như là đôi bạn chung cảnh ngộ, và cũng vì xót xa với hoàn cảnh một Tướng Lãnh thất trận, chịu bao nỗi đắng cay bẽ bàng, trong nhà tù không có giấy bút, và để tránh con mắt dò xét của đồng tù cũng như bọn quản giáo, bài thơ làm tới đâu tác giả đã học thuộc lòng tới đó. Khi bài thơ làm xong, Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai muốn xin Việt Thương Nhân chép cho ông bài thơ đó, nhưng nhà sư không dám.

Sau khi ra tù, cả hai đều đã đi định cư tại Hoa Kỳ, cùng theo diện Cựu Tù Nhân Chính Trị (H.O.) và vẫn còn liên lạc được với nhau, nên khi bài thơ được đăng trên báo Chân Nguyên, Việt Thương Nhân không quên gửi cho Thiếu Tướng Giai một bản. Do vậy, chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy Thiếu Tướng Giai đã thuộc bài thơ từ cách xuống hàng, ngắt câu, và không sai một dấu chấm phẩy.

Trong lúc nói chuyện với chúng tôi, Hòa Thượng Thích Giác Hoa có hỏi thăm tình trạng sức khỏe của Thiếu Tướng Giai, và yêu cầu tôi nói rõ về bài thơ này, do Việt Thương Nhân sáng tác.

Từ Dallas, ký giả Thái Hóa Lộc, người đã đưa tôi đến thăm Thiếu Tướng Giai, thú nhận, lâu nay ông cứ đinh ninh bài thơ đó là của Tướng Giai, mà không bao giờ hỏi cội nguồn, cũng như anh  Lộc xác nhận chưa bao giờ nghe Ông Giai nhận đó là bài thơ do ông làm.

Phần tôi xin nhận lỗi sơ sót, trong hoàn cảnh đó, cứ nghĩ là bài thơ này do Thiếu Tướng Giai sáng tác.

Ở trong trại tù Nam Hà, khu Z, Việt Thương Nhân phụ trách việc hớt tóc hàng tháng cho anh em tù nhân chính trị, và ông thường cạo gió cho những anh em bị cảm sốt, trong đó có các vị Tướng Lãnh VNCH. Việt Thương Nhân cho chúng tôi biết, bài thơ này ông thuộc nằm lòng và người đầu tiên ông đọc cho nghe là Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, sau đó là Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, trong một lần cạo gió cho hai vị này.

Ðể giải thích việc Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đã thuộc lòng bài thơ dài 62 câu này, nhà thơ Việt Thương Nhân sau khi bài thơ đăng trên báo Chân Nguyên, ông đã gửi tặng cho Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai một bản.

o O o

Nay nhân dịp hân hạnh được Hòa Thượng Thích Giác Hoa nhờ viết đôi dòng giới thiệu cho tập thơ nhỏ của ông, tôi mạn phép nêu lên câu chuyện cũ, xin trả bài thơ “Tâm Sự Người Bại Tướng” lại cho người đã viết ra nó, và tiện đây cũng xin giới thiệu vài lời về tác giả Việt Thương Nhân (-H.T Thích Giác Hoa.)

“Việt Thương Nhân” theo lời người đặt nó ra, nôm na là nói đến một “người thương nước Việt.’’ Việt Thương Nhân tên thật là Nguyễn Xuân, sinh năm 1941 tại Thôn Tân Mỹ, Xã Vạn Thạnh, Quận Vạn Ninh, Vạn Giả Khánh Hòa.

Ông xuất thân trong một gia đình làm nghề mộc, nhưng lại có ý hướng muốn xuất gia. Do vậy sau khi học xong trung học, năm 1958, lúc 17 tuổi, ông tìm sư học đạo, và xuất gia theo Giáo Phái Khất Sĩ vào ngày 15 tháng 7 Âm Lịch – tại Tịnh Xá Ngọc Liên, Cần Thơ (gọi là Du Tăng hay Sư Áo Vàng.) Năm 1964, Nha Tuyên Úy Các Tôn Giáo được thành lập, tuy các tu sĩ không bị động viên, nhưng Nha Tuyên Úy Phật Giáo đã tuyển chọn những Tu Sĩ có bằng Tú Tài trở lên để đào tạo và biên chế thành các Sĩ Quan Tuyên Úy Phật Giáo với cấp bậc Ðại Úy.

Năm 1972, Hòa Thượng Thích Giác Hoa mới theo học khóa 5 Chiến tranh Chính trị tại Trường Ðại Học CTCT Ðà Lạt và sau đó được bổ nhiệm vào chức vụ Tuyên Úy Phật Giáo tại Trung Ðoàn 31/ SÐ 21 BB, có căn cứ gần Hỏa Lựu, Chương Thiện.

Ngày 30/4, sau khi Việt Cộng vào Cần Thơ, trong cơn hoảng loạn, Ông về Saigon, nhưng sau đó, lại trở về Cần Thơ, ra trình diện với tư cách là một Sĩ quan Tuyên Úy Phật Giáo và bị giam tại Khu An Ninh Nội Chính, gần Cầu Bắc, Cần Thơ thuộc Trung Ðoàn16- SÐ 9BB. Ba tháng sau, ông được đưa về hậu cứ Trung Ðoàn 33 gần Phi trường Trà Nóc, Cần Thơ, để chuẩn bị đưa ra Bắc vào tháng 6 năm 1976.

Một số tù VNCH Vùng IV Chiến Thuật, từ cảng Bình Thủy, đã đi Bắc bằng tàu Hồng Hà. Trong chuyến đi này, Việt Cộng xếp các Tuyên Úy Tôn Giáo như là các thành phần nguy hiểm, quan trọng cùng đi chung với các sĩ quan cấp cao. Riêng 28 vị Tướng Lãnh bị giam riêng và đưa bằng phi cơ ra Bắc.

Hòa Thượng Thích Giác Hoa đã trải qua các trại tù khổ sai ở Yên Bái, Lào Cai (Hoàng Liên Sơn,) Thanh Phong, Hà Tây, Nam Hà. Trong trại tù ông ở đội Mộc và cũng phụ trách hớt tóc cho anh em bạn tù. Chính tại trại Hà Tây, ông đã có dịp gần gũi với các vị Tướng Lãnh và có dịp trò chuyện, tâm sự với Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai. Bài thơ “Tâm Sự Người Bại Tướng,” ra đời trong dịp này.

Sau 13 năm tù, Việt Thương Nhân trở lại Cần Thơ, làm nghề mộc cũng như nghề hớt tóc để sinh sống qua ngày.

Ông định cư tại Mỹ vào năm 1993, theo diện H.O.   do cơ sở Tịnh Xá Minh Ðăng Quang (Hòa Thượng Thích Giác Nhiên) bảo trợ.

Việt Thương Nhân làm thơ không nhiều. Những bài thơ của ông phần lớn làm ra trong nhà tù Cộng Sản, là những bài thơ thống hận, rên siết cho số phận con người. Vừa là một người thất trận, bỏ quê hương và con người lâm cảnh tù đày, khổ nhục; vừa là một nhà tu trước cảnh đời đảo điên, thơ của Việt Thương Nhân phản ánh của một giai đoạn bi thương cả dân tộc.

Chúng tôi xin trân trọng, với tư cách một người đã trải qua những giai đoạn tù đày dưới chế độ tàn ác, không tính người của Cộng Sản, một người không quê hương, đang sống những ngày tháng lưu vong nơi xứ người, xin gửi đến người đọc tập thơ nhỏ, làm xót xa người đọc của tác giả Việt Thương Nhân, Hòa Thượng Thích Giác Hoa.

HP