Đầu tuần này, Đại tướng Colin Powell, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ thời tổng thống George W. Bush đã qua đời vì những biến chứng từ Covid dù ông đã chích ngừa, hưởng thọ 84 tuổi. Là con trai của một gia đình di dân từ Jamaica, Powell trở thành một đại tướng 4 sao trong quân lực Hoa Kỳ và trở thành Ngoại trưởng là một thành công tột bực. Chuyên mục tuần này xin giới thiệu sơ lược cùng các bạn về cuộc đời và sự nghiệp của tướng Powell trước sự ra đi của ông.

Trong cuốn sách “Tiểu sử và những cuộc phỏng vấn Colin Powell, tướng Powell kể lại rằng, “Khoảng sáu tháng sau khi vào đại học tôi khám phá được điều mà tôi thích, đó là ROTC, Quân đoàn Huấn luyện Sĩ quan Trừ bị trong quân đội. Và tôi không chỉ thích nó, mà tôi còn khá giỏi. Ðó là điều các bạn thực sự phải tìm kiếm trong cuộc đời mình, điều gì đó mà các bạn thích và nghĩ rằng mình giỏi. Nếu các bạn có thể kết hợp hai điều đó lại với nhau, thì bạn đang đi đúng hướng và chỉ cần dồn sức cho nó”. Ðó là điều mà Powell đã làm và theo đuổi để từ một Thiếu Úy Trung Ðội trưởng sau khi tốt nghiệp đại học New York và các khóa huấn luyện quân sự, ông đã trở thành một trong những người Mỹ gốc Phi đạt đến cấp bậc cao nhất trong quân đội lẫn trong chính phủ.

Tướng Powell sinh năm 1937 tại New York trong một gia đình di dân lao động từ Jamaica. Cha ông là một nhân viên giao nhận hàng hóa và mẹ là thợ may, những người có nguồn gốc là Châu Phi lẫn Tô Cách Lan (Scotland).Tốt nghiệp đại học năm 1958, ông đã đi theo con đường quân nghiệp trong suốt 35 năm như nói trên.

Tiểu đoàn trưởng QLVNCH, Đại úy Võ Công Hiếu và cố vấn Mỹ Colin Powell thăm những đứa trẻ của một buôn làng ở Thung lũng A Shau năm 1963. Courtesy Colin Powell

Sau những lần đồn trú trong và ngoài nước, năm 1962 tướng Powell là một trong số 16 ngàn cố vấn Hoa Kỳ được Tổng Thống Kennedy cử sang Việt Nam để giúp chính phủ miền Nam Việt Nam, cũng cùng lúc ông lập gia đình với bà Alma Vivian Johnson, người vợ đã chung sống với ông gần tròn 60 năm qua. Một năm sau, năm 1963, Powell bị thương do dính bẫy chông trong một cuộc hành quân tại biên giới Việt Nam và Lào. Năm 1968, ông lại được thuyên chuyển sang chiến trường Việt Nam lần thứ nhì với cấp bậc đã là Thiếu Tá trong nhiệm vụ điều tra vụ thảm sát Mỹ Lai mà ông đã bác bỏ các cáo buộc lên lực lượng quân đội Mỹ và báo cáo rằng mối quan hệ giữa lính Mỹ và người dân Việt Nam là tốt đẹp. Tuy nhiên trong chuyến phục vụ lần thứ nhì tại Việt Nam, Powell cũng lại bị thương trong một vụ rơi trực thăng và giải cứu 3 đồng đội mình ra khỏi chiếc trực thăng đang bốc cháy. Ông đã nhận được 11 huân chương chiến công trong hai lần phục vụ tại chiến trường Việt Nam.

Trong chuyến công tác Việt Nam lần thứ hai, Thiếu tá Colin Powell sau một vụ tai nạn trực thăng vào tháng 11 năm 1968. Courtesy Colin Powell

Sau khi trở lại Mỹ, Powell đã tham gia các khóa học dân sự và huấn luyện quân sự cho con đường thăng tiến sự nghiệp của mình. Năm 1971, ông tốt nghiệp cao học quản trị thương mại MBA tại George Washington University, được nhận vào chương trình huấn luyện lãnh đạo của Bạch Ốc trong hai năm 1972-1973 và được thuyên chuyển sang Nam Hàn. Trở về Mỹ và làm việc tại Ngũ Giác Ðài, ông tiếp tục tham gia khóa huấn luyện tại Học Viện Quân Sự trong khoảng thời gian 1975-1976, một kế hoạch huấn luyện những sĩ quan cao cấp cho quân đội Hoa Kỳ trong tương lai. Ðược thăng cấp Thiếu tướng, ông trở thành phụ tá quân sự cao cấp cho Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan.

Tướng Colin Powell và Norman Schwarzkopf tại một cuộc họp báo trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất. (Wikimedia Commons)

Năm 1987, Powell trở thành một cố vấn an ninh quốc gia và đảm nhiệm trong suốt nhiệm kỳ của Tổng Thống Reagan. Ông là người được xem là chịu trách nhiệm các vấn đề chung và chính sách của TT Reagan với tổng thống Liên Xô lúc bấy giờ là Gorbachev. Năm 1989, sau khi Tổng Thống George H. W. Bush đắc cử, ông được vinh thăng Ðại tướng và bổ nhiệm ông làm Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân lúc 52 tuổi. Ðây là chức vụ quân sự cao nhất trong Bộ Quốc phòng và tướng Powell là sĩ quan người Mỹ gốc Phi đầu tiên và trẻ tuổi nhất từng đảm nhiệm chức vụ này. Tướng Powell đã trở thành một nhân vật quốc gia và tâm điểm trong cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất qua các chiến dịch Lá chắn Sa mạc (Desert Shield) và Bão táp Sa mạc (Desert Storm) tại Iraq. Với tư cách là nhà chiến lược quân sự chính, ông đã phát triển “Học thuyết Powell”, một chiến thuật quân sự chủ trương là sử dụng lực lượng áp đảo để tối đa hóa sự thành công và giảm thiểu thương vong. Tướng Powell xuất ngũ năm 1993, sau vài tháng tiếp tục là Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân sau khi Tổng Thống Bill Clinton đắc cử.

Ngoại trưởng Colin Powell tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc – nguồn The Intercept.com

Năm 2000, tướng Powell gia nhập chính trường khi Tổng thống George W. Bush bổ nhiệm ông làm Ngoại trưởng Hoa Kỳ và được Thượng viện Hoa Kỳ chuẩn thuận tuyệt đối. Vào thời điểm đó, đây cũng là chức vụ cao nhất mà một người Mỹ gốc Phi từng nắm giữ trong chính phủ dân sự tại Mỹ. Trong nhiệm kỳ của mình, dù không còn trong quân đội nhưng với vai trò Ngoại trưởng, Powell đã bị xem là chịu một phần trách nhiệm trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhì vào Iraq năm 2003 vì tin vào các tin tức tình báo thiếu chính xác, dù thoạt đầu ông hoài nghi về cuộc tấn công Iraq và lật đổ Saddam Hussein của Tổng thống Bush là giải pháp tốt nhất.

Xem thêm:   Hồng Kông suy tàn

Là một người Cộng Hòa ôn hòa và những năm cuối đời đối diện với ung thư, ông xem mình như một người độc lập. Tướng Colin Powell được sự ủng hộ từ cả hai đảng chính trị tại Mỹ nhờ sự tận tụy phục vụ quốc gia cùng quan điểm ôn hòa, đặt lợi ích quốc gia lên cao nhất. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn trên truyền hình hồi đầu năm nay, ông bảo rằng, “Tôi chỉ là một công dân bỏ phiếu cho người Cộng Hòa, cho người Dân Chủ. Trong suốt cả sự nghiệp và ngay cả lúc này, tôi chỉ nhìn đến quốc gia của tôi chứ không quan tâm đến vấn đề đảng phái”.

ĐYT

(Source: Biography.com)