Huỳnh phan anh

Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long như chính ông đã không ngần ngại ký kèm theo bút hiệu của mình. Ông sanh năm 1935 tại thị xã Thái Bình, nhưng theo lời ông, lại được khai là đẻ ở làng Trường An là quê cha của ông, thuộc huyện Vũ Tiên, Thái Bình. Chính vùng quê hương Thái Bình này đã xuất hiện và trở lại nhiều lần trong tác phẩm ông, nhất là trong các tác phẩm tự thuật. Vùng quê hương đó đã được dựng lại, đẹp hơn bao giờ hết, trong bộ trường thiên tiểu thuyết mang tên VẺ BUỒN TỈNH LỴ.

Ông đã theo học nhiều trường. Những năm tiểu học, ông không học hết niên học ở một trường nào vì cứ phải đổi trường theo sự xê dịch của cha. Chỉ có năm lớp Ba (École Élémentaire), năm 1942, ông mới được học trọn niên khóa ở trường Phụ Dực. Những ngày ở đây đã để lại nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm bàng bạc trong các truyện ngắn đầu tay của ông (Khúc Rẽ Cuộc Đời, Hoa Thiên  Lý), trong các tác phẩm tự thuật (Trường Cũ), cũng như trong nhiều tác phẩm viết ở ngôi thứ ba (Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ, Tuổi Mười Ba…) Nếu mỗi người viết văn đều đã trải qua một đoạn đời hay một kinh nghiệm nền tảng mai đây không ngừng ám ảnh, có thể nói rằng thơ ấu sống trong khung cảnh buồn thiu của tỉnh lỵ chính là hình ảnh đậm đà nhất, thân mật nhất của tác phẩm cũng như của tâm hồn Duyên Anh.

“Năm sau tôi bỏ trường Bà Sơ. Nhưng vừa học trường thị xã được hai tháng thì nhà tôi dọn về huyện lỵ Phụ Dực. Huyện lỵ thật nghèo nàn. Quanh thành quan huyện, dây bìm leo kín. Những mái nhà tranh, những ngọn đèn dầu và tiếng trống trên chòi canh buồn làm sao ấy. Ngôi trường huyện của tôi buồn hơn.”

Đời sống huyện lỵ thật nghèo nàn và nhất là thật buồn tẻ đã tạo cho ông một bối cảnh, một màu sắc tâm hồn. Đời sống đó, vẻ buồn đó đã dạy cho ông những bài học mơ mộng đầu tiên, những bài học mai đây còn tiếp tục in sâu vào tâm hồn ông, còn tiếp tục bàng bạc trong tác phẩm ông: một cách nào đó, nó mở ra cho ông những cánh cửa, những chân trời. Vẻ buồn tỉnh lỵ đã cống hiến cho người đọc những trang sách đẹp nhất của Duyên Anh, những trang sách làm sống lại một vùng trời quê hương quen thuộc, một đoạn đời với những giấc mơ và những rung động tuyệt vời của tâm hồn tuổi nhỏ:

“Mùa hạ năm nay thật buồn tẻ. Hoa phượng vẫn …nhưng màu hoa không rực rỡ. Tại học trò đã nghỉ học trước hè, nghỉ từ tháng ba chết đói. Loài ve sầu rên rỉ mỏi miệng cũng chẳng ai thèm cảm xúc. Có lẽ mùa hạ sang năm sẽ buồn tẻ hơn. Côn hồi tưởng những mùa hè năm xưa mà thương tiếc.”

“Hai đứa trẻ mong đợi thầy chúng nó trở về Thái. Thầy chúng, chắc chắn sẽ chở về những mộng ước ắp đầy những con mắt chúng. Hai đứa trẻ thị xã không muốn âm thầm sống trong cái vòng đai bình thản. Nó muốn thoát ra. Nỗi thèm khát của chúng bộc lộ rõ rệt. Bây giờ mới đúng lúc khung cảnh bình thản của tỉnh lỵ không thích hợp với chúng nó.”

Phải chăng đoạn đời đó, vẻ buồn đó đã tạo cho Duyên Anh một ngòi bút thơ mộng?

Năm 1944, Duyên Anh rời huyện lỵ Phụ Dực về thị xã Thái Bình. Năm 1945, chứng kiến cảnh chết đói tháng ba Ất Dậu, cảnh Nhật đảo chính Pháp, rồi cuộc tổng khởi nghĩa. Như bao nhiêu đứa trẻ lớn lên trong cao trào cách mạng, Duyên Anh đã là một nhi đồng chống Pháp, biết thù hận Pháp gây chiến ở Nam Bộ và đã tham gia cách mạng một cách hồn nhiên. Những cuốn truyện Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy đã làm sống lại giai đoạn lịch sử này với những nhân vật thuộc lứa tuổi của chính Duyên Anh thời bấy giờ (lên 9, lên 10…) đã sống, đã cảm nhận bằng tất cả tâm hồn ngây thơ trong suốt của chúng, như nhà văn Mai Thảo đã nói:

“…Những sự việc của thế giới và xã hội người lớn như đổi đời, cách mạng đói kém, mất mùa, chân phù lính Tàu lưỡi lê Nhật, hết thảy đều được nhìn, sống, nhận thức, phán đoán, thu vào bằng những trái tim lên mười. Qua cái lăng kính luân lý, đạo đức phơi phới hồn nhiên, trong vắt và đôn hậu nhất của tuổi thơ.”

1946, khi Pháp gây chiến ở Hà Nội, Duyên Anh tản cư về Tiền Hải và theo học trường huyện.

1947, đậu Sơ học bổ túc và học Thành chung ở Trình Phố thuộc Kiến Xương (quê hương của Trương Quỳnh Như).

1948, về quê nhà ở Trường An. Trốn nhà đi làm liên lạc viên cho bộ đội một năm. Sau đó lại trở về Trường An.

1950, Pháp chiếm Thái Bình. Hồi cư về thị xã. Chứng kiến cảnh càn quét của lính viễn chinh Pháp. Học trung học tỉnh.

1952, lên Hà Nội, học Trung học đệ nhị cấp. Duyên Anh học đến 1954 thì vào Nam sau khi đã trở về Thái Bình sống ba tháng trong bầu không khí “giải phóng-tiếp thu”. Ông di cư vào Sàigòn một mình. Sống vô tích sự tại Nhà hát Tây. Ông đã ghi lại những ngày này trong Áo Tiểu Thư, những ngày đầy thơ mộng và hồn nhiên của thời mới lớn mặc dù những khó khăn về vật chất. Chính trong giai đoạn này, Duyên Anh bỏ học vì không được ai chu cấp.

Xem thêm:   Chợ cá Trần Quốc Toản

Đến giữa năm 1955, ông lên Ban-Mê-Thuột suốt ngày hạ cây, cưa ngắn, bổ nhỏ, gánh ra thị xã bán để mưu sinh. Nhưng thực ra ông theo đảng Duy Dân lên đó mưu chống chính phủ Ngô Đình Diệm (Ảo Vọng Tuổi Trẻ) chính ông đã từng thú thật về chuyện đi làm “cách mạng” là “đói quá theo bừa và một phần cũng vì mơ mộng tuổi vừa lớn mà!”. Quá nửa năm làm chiến sĩ cách mạng bất đắc dĩ, ông tự thấy không đẹp bằng nhân vật Dũng trong tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, nên bỏ về Sàigòn, sống nhờ trên kho chứa đồ cũ của hãng dệt ở đại lộ Trần Hưng Đạo, sau đó sống nhờ với một người bạn làm cán bộ chấm công. Ông đã kể lại những ngày này trong hồi ký Làm Báo:

“Chúng tôi sống ở ngoại ô Hòa Hưng, trong một xóm điếm tồi tệ. Xóm điếm thấp hơn mặt đường cả thước. Lên xuống y hệt leo thang. Căn nhà mướn của một me Tây lụp xụp. Mái lá. Tối ngày chuột khiêu vũ. Cạnh nhà có con lạch chảy ra cống thành phố. Thuở ấy, lính viễn chinh Pháp chưa chịu về nước, xóm điếm tấp nập. Đêm nào cũng xảy ra vụ kiểm tục, bố ráp và lính viễn chinh “chơi lường”. Điếm chạy lính huỳnh huỵch. Điếm chửi lính viễn chinh ồn ào. Đầy rẫy thảm cảnh và nghịch cảnh của một xã hội về chiều… Tôi thương nhất những đứa con lai da trắng, da đen. Những đứa trẻ không có quê hương, tổ quốc ấy cũng là những đứa trẻ không có tuổi thơ. Mười tuổi chúng đã biết ghếch cớm (gác cảnh sát, hễ thấy cảnh sát vào xóm là báo động) cho bọn Tú Bà. Sống ở xóm điếm, ở cái vũng bùn tối cùng cực, tôi đã nghĩ phải viết một thiên phóng sự nhan đề Xóm Quốc Tế!”

Cũng trong khoảng thời gian này, đời sống vật chất đã đưa đẩy Duyên Anh tới nhiều hoàn cảnh nổi trôi, rày đây, mai đó, hết nghề này lại chuyển sang nghề khác để sinh nhai. Hết lang thang với người sơn đông mãi võ, ông nhập đoàn cải lương lưu diễn miền Tây (Mây Mùa Thu). Ông lại trở về Sàigòn, làm nghề giữ xe đạp hội chợ. Quảng cáo cho đoàn xiếc Woong Bang Phu ở sân banh Tao Đàn. Dạy học tư gia. Ông đã từng sống dưới chân cầu Tân Thuận với người đồng hương đạp xích lô, sống lẫn lộn trong một xã hội bần cùng nhất với những cảnh bất công ngang trái hàng ngày diễn ra oan nghiệt gấp ngàn lần những cảnh đời trong tiểu thuyết Nguyên Hồng. Chung đụng với đủ hạng người: phu bến tàu, phu xích lô, buôn gánh bán rong, đánh giày, bán báo, ăn cắp, du thủ du thực… ông đã “sống với họ, sống như họ”.

Nếu Duyên Anh chưa viết thiên phóng sự mang tên Xóm Quốc Tế như ông đã từng nghĩ tới, thì chính ông đã viết hơn một cuốn truyện dài mang nặng màu sắc phóng sự xã hội, nói về những cuộc đời, những cảnh sống đầy tối tăm, nghịch cảnh (Luật Hè Phố, Điệu Ru Nước Mắt…) và trên phương diện này nhiều người đã không ngần ngại gọi ông là một nhà văn xã hội. Điều đáng nói ở đây chính là Duyên Anh đã sống, trực tiếp hay gián tiếp, những cảnh đời mà ông đã viết.

Để tiếp tục theo dõi những bước chân của Duyên Anh, năm 1957, ông rời Sàigòn, rời bỏ “miền bất hạnh không có nổi ánh điện câu để thấy nó hắt hiu, vàng vọt”, ông cùng người bạn xuống Mỹ Tho mở lớp dạy đàn sáo lấy tên là Hương Duyên (Cầu Mơ). Thất bại, ba tháng sau, trở về Sàigòn. Rồi lên Tây Ninh sống nhờ người quen, ngày ngày gánh nước tưới rau giúp bạn để có cơm ăn ở một trại tiếp cư thuộc Trảng Lớn. Hãy nghe ông nhắc lại những ngày sống vô vị đó:

“Ở đây buồn lắm. Xong công tác tưới rau tôi thường xuyên ngồi trên cái nắp quan tài của trại hòm đánh cờ tướng giết thì giờ. Mỗi sáng sớm, xe đò về Sàigòn đều ghé qua, bóp còi inh ỏi. Tiếng còi như xé nát lòng tôi. Tuổi trẻ của tôi đành chôn chân ở một chỗ, nghe nỗi buồn đốt cháy hoa mộng. Đọc Một Chuyến Đi của Nguyễn Tuân tôi phát khóc.”

1958, Duyên Anh trở lên Buôn-Mê-Thuột. Rồi lại trở về Sàigòn sau bốn tháng nằm ở cây số 4. Được đàn anh Duy Dân giới thiệu xuống Hòa Hảo dạy học tại một ngôi trường bán công, mỗi giờ được bốn chục bạc. Dạy được ba tháng bị đàn anh đuổi về vì dám dẫn học trò sang Tân Huề ăn thịt chó và đá banh với học trò. Tội nặng nhất là dám mặc xà-rông sang văn phòng lãnh lương. Duyên Anh ra Long Xuyên xin dạy ở Quang Trung. Nhưng rồi việc dạy học cũng không bền bỉ ở đây. Hết niên khóa ông bỏ về Sàigòn, rồi lại đi lang thang khắp miền Tây và đói dài ở Sàigòn. Lại trở về Hòa Hưng sống nhờ gia đình người bạn. Chính trong những ngày này, Duyên Anh đã tập tễnh những bước chân đầu tiên vào cuộc đời làm văn làm báo.

Đó là khoảng 1960, Duyên Anh được nhà văn Trúc Sĩ tiến dẫn với tạp chí Chỉ Đạo của Bộ Quốc Phòng. Sáng tác đầu tiên của Duyên Anh được đăng trên mặt báo này là một bài thơ nhan đề Bà Mẹ Tây Ninh. Tháng sau, Chỉ Đạo đăng truyện ngắn Hoa Thiên Lý, sáng tác đầu tiên của ông được viết trong “một đêm mưa mù mịt ở chân cầu Tân Thuận” trong nỗi “nhớ nhà và thương tiếc tuổi thơ của mình”. Bút hiệu Duyên Anh cũng đã bắt đầu xuất hiện từ truyện ngắn mang nặng hình bóng quá khứ và kỷ niệm đó. Ông có truyện ngắn đăng thường xuyên trên tạp chí Chỉ Đạo từ đó, những truyện sau này được gom lại thành tập truyện đầu tay của Duyên Anh với nhan đề Hoa Thiên Lý do nhà Giao Điểm ấn hành. Chi tiết nổi bật nhất trong giai đoạn khởi nghiệp của Duyên Anh có lẽ là sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn lúc bấy giờ làm chủ bút Chỉ Đạo. Truyện ngắn Con Sáo Của Em Tôi được Nguyễn Mạnh Côn xếp vào “loại truyện đặc biệt” được trả ngót năm ngàn bạc, số tiền nhuận bút được xem là cao nhất vào thời đó, năm 1960, và được nhà văn này viết cho một cái “chapeau” nồng hậu. Duyên Anh cho đó là một sự hân hạnh mà ông chưa hề mơ tưởng tới. Một sự may mắn. Và:

Xem thêm:   Cá nhân tôi bỏ đi không có gì đáng tiếc

“Nhờ truyện ngắn Con Sáo Của Em Tôi mà một số độc giả biết đến tôi và dành cho tôi nhiều cảm tình. Lần đầu tiên tôi nhận được thư của độc giả. Bức thư không một lời “ái mộ” chỉ vỏn vẹn một giòng: Ông Duyên Anh, tôi bắt đền ông đấy, vì Con Sáo Của Em Tôi của ông mà Tết này tôi buồn muốn khóc. Giòng chữ trách móc đó, tôi giữ thật kỹ. Thuở ban đầu mà. Bây giờ nhận được thư độc giả, tôi vẫn còn xao xuyến nhưng không thể xao xuyến như thuở ban đầu.”

Nguyễn Mạnh Côn rời tòa soạn Chỉ Đạo, Duyên Anh bắt đầu viết cho các tờ báo khác: Sinh Lực của ông Lê Văn Thăng, Gió Nam của ông Lại Tư. Ông tiếp tục viết truyện. Sau đó, nhờ sự cất nhắc của ông Nguyễn Bích Liên, giám đốc nha Tâm lý chiến của Tổng Nha Thanh Niên thời bấy giờ, Duyên Anh bắt đầu “làm công chức một cách dễ dàng, thua Phó đốc sự có vài trăm”. Một lần nữa, Duyên Anh thú thật là mình may mắn. Luôn luôn may mắn. Cũng như sau này, thành công với nghề văn, được liệt vào hàng tác giả có sách bán chạy nhất, ông vẫn thường cho rằng mình may mắn. Thánh cho ăn lộc mà.

1962, Duyên Anh lấy vợ và tiếp tục làm công chức. Được biệt phái trông coi tuần báo Chiến Đấu cùng với nhà văn lão thành Tam Lang.

1963, bị trả về nhiệm sở cũ. Cũng năm này tập truyện Hoa Thiên Lý ra đời. Những ngày Phật giáo phát động cuộc đấu tranh, Duyên Anh ngồi ở sở hoàn thành Thằng Vũ, cuốn truyện dài đầu tay cũng là tác phẩm mở đầu cho bộ trường thiên tiểu thuyết Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ. Thằng Vũ được nhà văn Nguyễn Mạnh Côn khen hay và viết cho một bài giới thiệu nồng nhiệt.

1964, Duyên Anh rời bỏ nghề công chức đi làm nhật báo. Ông viết cho Xây Dựng, rồi Sống, Công Luận. Ông viết đủ các mục: tiểu thuyết, phiếm luận, tường thuật… như ông đã từng kể lại khá tường tận trong hồi ký Làm Báo đăng tải trên Tuổi Ngọc. Ông làm chủ bút tuần báo Con Ong, viết “Article de Fond” (Chuyên mục) cho báo này và đặc biệt ông đã viết gần hết các trang cho báo này trong những số đầu. Ông làm chủ nhiệm các tờ Người, Búp Bê, Tuổi Ngọc (bộ cũ). Chính trong khoảng thời gian thật sự sống với nghề báo (bên cạnh nghề văn), Duyên Anh đã tạo cho mình một tên tuổi qua những truyện dài đăng báo được độc giả, nhất là giới trẻ, tiếp đón nồng hậu: Ảo Vọng Tuổi Trẻ, Điệu Ru Nước Mắt, Nước Mắt Lưng Tròng (chưa xuất bản), Cầu Mơ, Trường Cũ, Nhà Tôi … Và cũng chính trong khoảng thời gian này, với những thiên phóng sự đầy sống sượng, với những bài phiếm luận độc địa ký dưới rất nhiều bút hiệu khác nhau như Thương Sinh, Mỏ Báo, Thập Nguyên, Thập Thành, Nả Cẩu … Duyên Anh đã gây nhiều sóng gió, đã tạo nhiều tiếng tăm nhưng đồng thời tai tiếng cũng không kém. Độc giả cũng như những người quen biết ít nhiều với ông vẫn thắc mắc không hiểu tại sao ở ông có thể dung hòa được hai hình ảnh con người hoàn toàn đối nghịch nhau: con người nhà văn luôn ca ngợi tuổi thơ trong sáng, mơ mộng và tình người, và con người nhà báo ngổ ngáo, độc địa, bất chấp mọi sự. Về điểm này người đọc có thể tìm đến câu trả lời của chính Duyên Anh trong phần “Nói chuyện với Duyên Anh.

Có lẽ vì muốn chấm dứt những sóng gió cùng những ân oán giang hồ hoặc như ông đã thú thật để khỏi phải tiếp tục những “đổ vỡ” của mình trong sự nghiệp làm báo, Duyên Anh từ giã nghề báo sau 7 năm vùng vẫy thật lực.

Năm 1971, ông làm chủ nhiệm Tuổi Ngọc, “tuần báo của tuổi vừa lớn”, trông coi nhà xuất bản cùng mang tên Tuổi Ngọc và tiếp tục sự nghiệp nhà văn của mình, sự nghiệp đã mang đến cho ông một sự thành công không chối cãi, đã tạo cho ông một chỗ đứng biệt lập trong văn nghệ miền Nam của những năm 60.

Trên đây là những nét phác họa về cuộc đời Duyên Anh, căn cứ trên chính những gì do Duyên Anh kể lại trực tiếp hay gián tiếp, qua những bài viết của ông hay qua những câu chuyện của ông. Dĩ nhiên người ta không thể thu gọn một đoạn đời trên một số trang ngắn ngủi. Nhưng thiết tưởng bao nhiêu đó đủ để giới thiệu hình ảnh một đời người. Với nụ cười và nước mắt. Tất cả làm thành chất liệu quý báu cho Tác Phẩm. Đời sống hãy còn dang dở đối với Duyên Anh cũng như Tác phẩm của nhà văn 37 tuổi này vẫn còn tiếp tục. Vậy thì, đã không thể kết luận về Tác phẩm, người ta lại càng khó lòng đi tới một câu kết về chính cuộc đời nhà văn. Điều tôi muốn nói ở đây là Duyên Anh đã sống như một cách chuẩn bị cho tác phẩm của mình. Mặc dù như ông vẫn thường tuyên bố, ông coi chuyện viết văn như một sự đùa chơi mà thành công và ông không ấp ủ mộng văn chương từ thiếu thời. Điều Duyên Anh không chối cãi là ông vẫn sống bằng kỷ niệm riêng. Sống như một cách chuẩn bị cho tác phẩm của mình. Tôi muốn nói: viết đối với Duyên Anh dường như là một cơ hội để được tiếp tục sống, hoàn tất cuộc đời mình hãy còn dang dở ở ngoài những trang sách, ở ngoài những dòng chữ. Trước khi thể hiện những tính cách mơ mộng và lý tưởng trong tác phẩm của ông, Duyên Anh đã từng thể hiện chúng vào cuộc đời của chính ông, một tâm hồn mang nặng căn bệnh của thời thơ ấu, của quá khứ, của kỷ niệm. Đọc Duyên Anh, tôi luôn có cảm tưởng bắt gặp một hình ảnh, một thứ tiếng nói quen thuộc không ngớt trở về dưới ngòi bút của ông. Phải chăng đó là hình ảnh, là tiếng nói của tâm hồn ông mà chính ông đã không ngừng đánh mất và tìm lại được. Nhà văn không ngớt đồng hóa mình vào chính những nhân vật mình tạo nên. Nhà văn không ngớt viết lại đời mình đồng thời tra hỏi mãi mãi không thôi về chính tâm hồn mình. Tôi không có ý khẳng định rằng cuộc đời Duyên Anh đã là một tác phẩm hoặc tác phẩm Duyên Anh là phản ảnh trung thực và trọn vẹn của con người ông. Cuộc đời và tác phẩm của Duyên Anh là hai thực thể không ngớt đến gần với nhau và có thể không bao giờ trùng hợp hay tan biến vào với nhau (vả chăng điều này có thể chỉ là một ảo tưởng). Trong ý nghĩa đó, cuộc đời không bao giờ là tác phẩm cũng như ngược lại. Nhưng nếu không thay thế cho nhau, chúng vẫn có thể là cơ hội của nhau. Tác phẩm Duyên Anh không ngớt tìm cách thu ngắn khoảng cách với tâm hồn của tác giả, với thế giới kỳ diệu của mộng mơ và kỷ niệm, với nguồn suối không cùng không tận đó.

Xem thêm:   Miệng Nhà Quan ngày 26 tháng 12 năm 2024

HPA, Sàigòn 1972

Trần Vũ đánh máy lại tháng 4-2024, từ khảo luận Duyên Anh, Tuổi Trẻ, Mộng và Thực của Huỳnh Phan Anh in tại Sàigòn năm 1972, Nxb Vàng Son, Chương I. Vì số trang giới hạn, bản in trên tuần san Trẻ là bản cắt ngắn.

Huỳnh Phan Anh tên thật Huỳnh Thành Tâm, sinh ngày 3-3-1940 tại Thủ-Dầu-Một, Bình Dương. Tốt nghiệp ban Triết Đại học Sư phạm Đà-Lạt năm 1964. Trước đó, ông đã có truyện ngắn đầu tay Đứa Bé Đánh Giầy đăng báo năm 1956 và bài phê bình đầu tiên đăng tạp chí Mai khoảng năm 1960, nơi đồng môn Nguyễn Xuân Hoàng cùng gia nhập làng văn. Ông chủ trương nhà Đêm Trắng xuất-bản sách của ông và bằng hữu với khuynh hướng sáng tác/triết lý như Nguyễn Xuân Hoàng, Đặng Phùng Quân. Năm 2002, ông định cư tại Hoa-Kỳ và mất ngày 30-8-2020 tại San Jose, CA.

Tác phẩm đã xuất bản

Về phê bình văn chương: Văn Chương Và Kinh Nghiệm Hư Vô (Hoàng Đông-Phương, 1968. 199 tr.), Đi Tìm Tác Phẩm Văn Chương (Đ?ng Th?p, 1972. 352 tr.) v? kh?o lu?n?ồng Tháp, 1972. 352 tr.) và khảo luận Duyên Anh Tuổi Trẻ Mộng và Thực (Vàng Son, 1972. 349 tr.).

Về sáng tác, các tập truyện Người Đồng Hành (Đêm Trắng, 1969), Phía Ngoài (chung với Nguyễn Đình Toàn; Hồng Đức, 1969), Những Ngày Mưa (‘tân truyện’, Đêm Trắng, 1971) và Ngọn Lửa Đìu Hiu (Tân Văn 52, 1973).

Ông còn là dịch giả cuốn Ca Ngợi Triết Học (Eloge de la philosophie của M. Merleau-Ponty, Nguyễn Nhật Duật chú giải, Đặng Phùng Quân giới thiệu; NXB Mai Nguyễn, 1970) và các tác phẩm văn chương: Tình Yêu và Lý Tưởng (Tonio Kroger của Thomas Mann; Ngày Mới, 1974), Chuyến Viễn Hành Trong Đêm (Der Zug kommt punktlich của Heinrich Boll; Vàng Son, 1973), Lạc lối về (Und sagte kein einziges Wort của Heinrich Boll; Khai Hóa, 1972), Tình Cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật; Ngày Mới, 1973),..

Sau 1975, ông xuất bản Không Gian Và Khoảnh Khắc Văn Chương (“tiểu luận-phê bình”; Hội Nhà Văn, 1999. 474 tr.) tuyển trích lại những bài từ hai tập phê bình trước 1975 và bài mới viết về các tác giả ngoại quốc và các tác phẩm dịch thuật về thơ: Một Mùa Địa Ngục (Arthur Rimbaud, NXB Văn học), Tuyển thơ Tình yêu (Paul Eluard, NXB Hội Nhà văn), Thơ Yves Bonnefoy (Hội Nhà Văn) cùng truyện, tiểu thuyết Chuông Gọi Hồn Ai (Ernest Hemingway, Văn Học), Tình Yêu Bên Vực Thẳm (Erich Maria Remarque, NXB Trẻ), Sa Mạc (J.M.G Le Clézio, Hội Nhà Văn), Lạc Lối Về (Heinrich Boll, Văn Hóa Văn nghệ), Tình yêu và Tuổi trẻ (Valery Larbaud, NXB Trẻ), Ảo Ảnh (Thomas Mann, Văn học), Cỏ (Claude Simon, Hội Nhà văn), Thời Gian Của Một Tiếng Thở Dài (Anne Philipe, Văn nghệ TpHCM) và tập Những Cuộc Đời Tỏa Sáng của André Maurois (NXB Trẻ).

[Nguyễn Vy Khanh biên soạn]