Lâm Hảo Dũng là nhà thơ được nhiều người yêu mến. Năm 1968 ông gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thuộc đơn vị pháo binh trấn đóng vùng Tam Biên.
Thơ ông được đăng trên các tạp chí văn nghệ Sài Gòn: Văn, Khởi Hành, Nghệ Thuật trước năm 1975.
Ông có những bài thơ về chiến tranh, lính tráng, quê hương, rất được mọi tầng lớp từ chủ bút, tác giả, cho đến độc giả Miền Nam yêu mến
Sau năm 1975 ông bị chính quyền Cộng sản bắt tập trung cải tạo. Năm 1980 Lâm Hảo Dũng vượt biên, sang định cư tại Canada. Tác phẩm đã xuất bản: Ngày đi thương sợi khói bên nhà Hoa Kỳ, 1985. Đi giữa thời tan nát, Canada, 1989. Tóc em dài em cài bông hoa lý, Canada, 1989. Những bài thơ của tôi, Australia, 2013.
Tới nay sau nhiều chục năm ông vẫn tiếp tục sáng tác và phổ biến trên các trang mạng. Hôm nay trong không khí vào thu, chúng ta cùng đọc lại những bài thơ viết trong chiến tranh của Lâm Hảo Dũng để chia sẻ những ngày tháng đẹp hào hùng và bi tráng. SAO KHUÊ
bên đồi chư pao
.
Súng dội trời trai thôi cũng nản
Chiến chinh không thấy một ngày mai
Những bông hoa dại buồn trong gió
Như khóc than thời chôn xác trai
.
Chư Pao ngỡ chết trong lòng địch
Vẫn có ngày vui dù mong manh
Những chiến binh ngồi nghe đạn réo
Pháo gầm bom nổ rát trời xanh
.
Chư Pao một dãy mồ chôn xác
Những chiến binh dầu đêm cuối thu
Ai muốn qua vùng Tân Phú ngắm
Những hầm than máu chảy về đâu?
.
Chư Pao ai oán hờn trong gió
Mỗi chiếc khăn tăng một tấc đường
Những mồ hôi đổ tan thành đá
Tan nát lòng ta khách viễn phương
.
ngày trở lại bồng sơn
.
Dễ có một ngày ta trở lại
Bồng Sơn xa quá cuối trời xa
Mấy cụm nhà hoang trơ mái xám
Chân đèo Phủ Cũ nhận không ra
.
Ta đứng bên cầu xe lửa cũ
Quê em còn cách một dòng sông
Nhớ đêm máu chảy người quên khóc
Em có u buồn trong mắt trong?
.
Đã mất rồi quận lỵ Hoài Nhơn
Đời đi lính trận cỏ xanh hồn
Là khi theo gió về trên núi
Còn gởi sương chiều mộng cuối thôn
.
Em cắn giùm ta những quả sim
Như ngày đói khát lúc hành quân
Đã cho ta biết hoài chân lý
Chẳng có thanh bình ở Việt Nam
cảm khái khi về núi
.
Khi bỏ Đèo Nhông về với núi
Ta làm mây ở cuối trời xa
Ngắm đôi hàng tháp Chiêm gầy guộc
Thương mắt em buồn chuốc rượu ta
Là lúc ta mơ hồn Võ Tánh
Trên thành lửa đỏ đất Tây Sơn
Hay trong gió sớm mưa trên mộ
Một gái trung trinh Bùi Thị Xuân
Ta biết anh hùng xưa uẩn thác
Lăng Mai Xuân Thưởng khói chưa tàn
Chiến tranh mang những người đi trước
Hồn lại đầu thai lộn xuống trần
Bỗng chốc say đời đi đánh trận
Bần nông một thuở Bắc Bình Vương
Ô hay tráng sĩ trên yên ngựa
Cũng chết mơ hồ bởi Ngọc Hân
Đây những buôn rừng thương ngọn suối
Thương cây làm được chiếc nhà cao
Thương con chim hót trên cành biếc
Thương cái gùi cong nước trĩu bầu
Ta muốn bỏ thành lên ở núi
Sống hoang vu như cỏ cây sầu
Bởi bao tham vọng trên trần thế
Sẽ úa tàn khi bạc mái đầu
Chiến sĩ không nên buồn rã rượi
Cười ngông nghênh nhé súng cầm tay
Muốn như muông thú xin đành hẹn
Một tối mơ màng cốc rượu cay
ngày xưa ở kontum
.
Thành phố buồn run nóc giáo đường
Chiều qua Phương Quý nắng vương chân
Một mùa đông nữa trên miền núi
Tôi thấy lòng cay nhớ cố hương
Dòng Dakbla kia vẫn chảy thầm
Ngược, xuôi đành hỏi gái Kontum
Trăm năm em vẫn quỳ bên Chúa
Như hổ gầm vang điệu nhớ rừng
Sương mỏng nhưng nghe đằm thắm lạnh
Ai lên Trung Nghĩa ghé Pơ Krong
Đẹp thay vào những đêm trăng tỏ
Mẹ trước sân nhà dệt ước mong
Konhơring có nằm say ngủ
.
Như giữa làng quê với phố phường
Như ở Dakto nhìn khói đục
.
Buôn làng hiu hắt mấy hàng thông
Thời chiến người đi đến những đâu
Đá khô chân núi, cát sông sâu
Mấy mươi năm vẫn chưa lành hẳn
Vết cắn em còn rõ máu đau..
khi ở trung đoàn 42
.
vẫn thấy đồng không đùn nấm mộ
cỏ xanh ai phủ dưới chân đồi
dakto xa quá nhìn không thấy
như có gì cay ở mắt tôi
.
sáng nay trên chiếc xe già cỗi
đã vượt đường xa những hố mìn
những dãy rừng thưa buồn diệu vợi
sống thầm như thuở đợi bình yên
.
ta như lữ khách không nhà cửa
không có hồn ai để lạnh lùng
cố vui hát một bài ca cũ
giọng cũng khan mòn tay cũng run
.
chắc mai ồ nhỉ – ngày mai nhỉ?
ta với sương ngàn với gió trăng
chắc em – có lẽ – là em thật
sung sướng trong tay cốc rượu mừng