VÀI HÀNG TIỂU SỬ

Trần Phong Giao sinh tại Nam Định. Năm 1954, di cư vào Nam.

Năm 1960 đến năm 1963, ông làm thư ký toà soạn báo Tin sách do Trung Tâm Văn Bút Việt Nam chủ trương. Thời gian này, ông cũng bắt đầu dịch một số tác phẩm văn chương, triết học của các nhà văn nổi tiếng thế giới, như Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Paul Gallico.

Cuối năm 1963, ông làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn (số đầu tiên là số xuân Giáp Thìn, 1964) tại Sài Gòn do Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm.

Năm 1971, ông thôi làm ở tạp chí Văn, lập nhà xuất bản Giao Điểm và xuất bản tạp chí Giao Điểm, nhưng chỉ được ít số thì đình bản. Sau đó, ông có thực hiện một vài giai phẩm khác nữa (trong đó có tờ Chính Văn với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn), nhưng không thành công.

Cuối cùng ông trở lại công việc dịch sách và làm quản thủ thư viện Đại Học Cửu Long cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bên cạnh các công việc trên, đầu năm 1975, ông còn giữ mục Giải đáp thắc mắc Văn học trên tờ Thời Tập của nhà văn Viên Linh.

Sau một thời gian lâm bệnh (ung thư đại tràng), ông mất ngày 13 tháng 4 năm 2005 tại nhà riêng ở quận 6, Sài Gòn, thọ 73 tuổi.

TÁC PHẨM

Tác phẩm của Trần Phong Giao có:

Sáng tác

– Ngồi lại bên cầu (tập truyện)

– Nửa đêm thức giấc (tiểu thuyết)

Dịch thuật

– Lưu đày và quê nhà (L’exil et le royaume) tuyển truyện của Albert Camus.

– Guồng máy (L’engrenage) dịch tác phẩm kịch của của Jean-Paul Sartre.

– Sứ mệnh văn nghệ (Discours de Suède), diễn văn đọc tại lễ nhận giải Nobel Văn   chương của Albert Camus.

– Sự đã rồi (Les jeux sont faits) của Jean-Paul Sartre. Trần Phong Giao dịch chung với Nguyễn Xuân Hoàng.

– Không một nấm mồ (Morts sans sépulture) của Jean-Paul Sartre.

– Con chim trốn tuyết (Snow goose), truyện của Paul Gallico. Trần Phong Giao dịch chung với Hoàng Ưng.

– Kinh nghiệm đời văn của Erskine Caldwell. Trần Phong Giao dịch chung với Nhã Điển (Nxb Văn Hóa, 2009). (từ Wikipedia)

Sau đây, Trang Văn Học xin giới thiệu bài viết của Trần Hữu Thục về liên hệ với Trần Phong Giao.NGUYỄN & BẠN HỮU

Trần Hữu Thục

Tôi mê viết lách từ nhỏ.

Viết nhiều, gửi nhiều nhưng mãi đến năm 1967, lần đầu tiên tôi mới có tác phẩm được đăng trên báo Văn học Sài Gòn. Ðó là một bài thơ: Cuồng ngâm (tạp chí Văn số 97, mùa hè 1967). Thú thì thú, nhưng tôi vẫn chưa “toại nguyện” vì thích truyện hơn.

Lại viết viết gửi gửi. Cho đến lần đó, khoảng giữa năm 1968, tôi được toại nguyện…hụt. Số là trong một số báo Văn (tôi quên số), phần nhắn tin cho tôi, tòa soạn cho biết: Ban Tuyển Ðọc đã chọn truyện Dấu tích đời để đăng, nhưng đáng tiếc là truyện có nhiều chi tiết không thể lọt qua được lưỡi kéo kiểm duyệt, những chi tiết mà nếu bỏ đi thì truyện sẽ không còn đứng vững, tòa soạn mong bạn gửi cho sáng tác khác. Một lời nhắn tin rất ngắn, nhưng rất dài đối với tôi. Tôi vừa cảm thấy sung sướng vừa thất vọng và ấm ức.

Xem thêm:   Nhà văn Lại Thanh Hà - ‘Bướm Vàng’

Trong lúc tôi cặm cụi cố viết một truyện khác, thì bất ngờ làm sao, chừng hai tuần sau đó, tôi nhận được thư từ tòa soạn Văn, một lá thư đánh máy rất cẩn thận với cái “logo” báo Văn ở đầu trang. Thư ký tòa soạn Trần Phong Giao “vui mừng” báo cho biết là, bằng một cố gắng riêng, ông đã được sở kiểm duyệt cho “đi” truyện ngắn Dấu tích đời. Không lâu sau đó, Dấu tích đời – kể chuyện một bà mẹ tưởng con gái mình đi làm ăn lương thiện để nuôi mình, cuối cùng khám phá ra là cô dối mẹ, hành nghề mãi dâm với lính Mỹ – xuất hiện trên Văn 121, số kỷ niệm Ðệ Ngũ Chu Niên, phát hành vào đầu năm 1969.

Trần Phong Giao hình của Lê Phương Chi 

Ðúng là tôi có duyên với Văn, và qua đó, với Trần Phong Giao!

Với truyện ngắn đó, tôi bắt đầu được anh xếp vào hàng ngũ “Những cây bút trẻ”, nhóm từ mà cho đến bây giờ nghe lại, vẫn cảm thấy nao lòng, vì nó nhắc nhở đến những buồn vui thời tuổi trẻ. Nếu không có sự quan tâm của anh, có lẽ nó sẽ không được đăng. Và nếu không được đăng, không biết tôi còn đủ tự tin tiếp tục viết và gửi để chỉ thấy tên mình nằm dài dài trong hộp thư tòa soạn! Sau đó, thì hầu như truyện nào tôi gửi cho Văn cũng được “qua cầu”. Và (tôi nghĩ, biết đâu) nhờ có mặt trên Văn, truyện và các bài viết khác của tôi cũng đã dễ dàng xuất hiện trên một số báo văn học khác như Vấn Ðề, Bách Khoa, Khởi Hành và cả tạp chí Ðối Diện. Tóm lại, Dấu tích đời, hiểu theo một nghĩa nào đó, thì như một cái vé vào cửa “văn giới” đối với tôi.

Năm 1969, trong thời gian đi học và đi làm ở Sài Gòn, ở trọ trên đường Phát Diệm – cách tòa soạn Văn không xa, khoảng chừng hơn cây số, lại nằm trên đường đi về hàng ngày – tôi nhiều lần ghé thăm Trần Phong Giao. Như nhiều bạn văn đã đề cập, kinh nghiệm lần đầu gặp ông thư ký tòa soạn này là một kinh nghiệm khó quên: một con người khô khan, lạnh lùng, nếu không nói là… bất lịch sự, trái hẳn với những lời nhắn tin đầy “tình thân” trên Văn hay trong những lá thư gửi riêng cho người viết. Bước vào tòa soạn – thực ra, chỉ là một cái phòng nhỏ nằm sát lề đường, bề bộn giấy tờ, sách báo -tôi gặp một người đàn ông đang chăm chú nhìn lên cái bàn máy chữ nhỏ, gõ lọc cọc. Nghe tiếng tôi chào, người đàn ông vẫn cắm cúi làm việc, dường như chẳng hề biết có người đang đứng sát bên. Khi nghe tôi hỏi xin được gặp ông thư ký tòa soạn, thì người đàn ông đáp, trong lúc vẫn không rời bàn máy chữ “Cậu cần gặp có việc gì?”. Tôi nói tên, tưởng là ông sẽ ngừng đánh máy, quay đầu lui, chào hỏi, nhưng không, ông chỉ nói: “Thế à!” một cách dửng dưng và…vẫn tiếp tục làm việc. Chán nản và bối rối, tôi chào ra về. Lúc này, ông ta mới ngẩng mặt lên nói: “Khi nào rảnh, nhớ ghé chơi”. (Nguyễn Mộng Giác đã biến kinh nghiệm rất chung đó với Trần Phong Giao thành một cảnh tượng khá sống động trong “Mùa biển động” tập 4, chương 86.)

Xem thêm:   Nguyễn Quang Tấn. và Dạo Khúc

Bực thì bực, nhưng vẫn ghé. Dần dà rồi cũng quen thân. Biết tính anh, tôi chỉ ghé khi nào thật cần và thường là vào buổi chiều khi anh sắp nghỉ việc. Thỉnh thoảng, ít việc, anh rủ tôi ra chợ Thái Bình uống nước, chuyện gẫu. Có lần anh rủ tôi về căn nhà nhỏ ở dưới chân cầu Kiệu, đường Hai Bà Trưng để uống rượu. Tóm lại, một Trần Phong Giao hoàn toàn khác.

Như Trần Hoài Thư nhận xét, ít có tờ báo văn học nào ở Sài Gòn thời đó mà quan tâm nhiều đến những cây bút trẻ đang cầm súng chiến đấu trên các chiến trường như tạp chí Văn, hay nói cụ thể hơn, như Trần Phong Giao. Không những đăng nhiều truyện ngắn nóng hổi viết và gửi vào từ mặt trận, người thư ký tòa soạn này còn tỏ ra lo lắng đến số phận họ. Tôi còn nhớ, có lần anh cho biết là đã nhờ người quen trong Tổng Tham Mưu kéo Y Uyên – lúc đó đang ở một đơn vị chiến đấu ngoài mặt trận ở Tuy Hòa – về Sài Gòn hay về một hậu cứ an toàn nào đó. Nhưng đáng tiếc là, một thời gian ngắn trước khi Y Uyên nhận được giấy thuyên chuyển, anh đã tử trận, khoảng mùa hè năm 1969. Tài hoa bạc mệnh! Trần Phong Giao buồn lắm. Tiếc nữa, vì Y Uyên là một cây bút “cưng” của Văn (và cũng của Bách Khoa). Hầu hết truyện của Y Uyên đều viết về những khổ nạn chiến tranh. Văn Y Uyên có một phong cách rất riêng, hiện thực mà vẫn bay bổng, chi li nhưng không quá sa đà. Thú thật, tôi “mê” văn Y Uyên, mê lối viết điềm tĩnh của anh. Ðiềm tĩnh lạ lùng. Ðiềm tĩnh mà đau buốt. Cho nên khi Trần Phong Giao yêu cầu tôi viết bài cho số Văn tưởng niệm Y Uyên, tôi nhận lời ngay.

Tạp chí Văn trước 1975

Số tưởng niệm đó ấn hành đâu vào năm 1969 hay 1970 (tôi không nhớ rõ chính xác thời gian) là một số báo khá dày, với sự đóng góp của nhiều bạn văn và nhà biên khảo. Riêng tôi, tôi viết bài “Khuôn mặt chiến tranh trong tác phẩm Y Uyên[1], phân tích cách mô tả chiến tranh trong các truyện ngắn của anh. Tất cả tiền nhuận bút của số báo này đều được các tác giả đồng ý gửi về cho gia đình Y Uyên để làm tấm bia mộ cho anh, gọi là chút tấm lòng của những bạn văn đối với người quá cố.

Xem thêm:   Diều giấy mắc nạn

Ngoài việc trông coi tờ Văn, Trần Phong Giao còn là chủ biên của một tập san khác: Tân Văn, nguyệt san nghiên cứu, phê bình và sáng tác, phát hành đồng thời với tờ Văn, chủ yếu nghiêng về biên khảo. Biết tôi cũng thích viết tiểu luận, anh mời tôi viết bài thường xuyên cho tập san này. Tôi cảm thấy vinh hạnh vì được tin cậy, nên nhận lời. Và viết ngay bài điểm sách Một cách buồn phiền, tác phẩm đầu tay của Lê Văn Thiện (bút hiệu là Văn Lệ Thiên), một cây bút trẻ (cũng là lính) thường xuất hiện trên Văn, do tạp chí Văn vừa xuất bản lúc đó, in trên Tân Văn số 13, tháng 5/1969. Anh giục tôi viết thêm, nhưng tôi ham sáng tác, lại bận bịu việc học, việc làm nên hứa hoài hứa mãi mà không có thêm bài nào. Năm sau, tôi được tuyển dụng về Huế đi dạy học, rồi nhập ngũ. Ðến cuối năm 1971, tôi mới được biệt phái về lại trường. Cũng năm đó, Trần Phong Giao chia tay với nhà xuất bản Nguyễn Ðình Vượng, tờ Văn chuyển qua Nguyễn Xuân Hoàng và Tân Văn thì đình bản. Ðành thôi!

Từ đó, tôi không gặp lại Trần Phong Giao cho đến khoảng năm 1985 – thời gian này, tôi thường hay ra vào Sài Gòn chạy vạy kiếm sống – tôi tình cờ gặp anh ở một quán cà phê vỉa hè ở khu chợ trời Huỳnh Thúc Kháng. Cùng đi với anh là ông Lê Ngộ Châu của tạp chí Bách Khoa và một cây bút Sài Gòn cũ tôi quên tên. Trông anh buồn bã và chán nản (thực ra thì lúc đó, tất cả mọi khuôn mặt đều buồn bã và chán nản như thế!). Chúng tôi chỉ trao đổi dăm ba chuyện mưa nắng thời tiết, rồi thôi. Nói cho cùng, cũng chẳng có gì nhiều để nói với nhau.

Ðó là lần cuối tôi gặp Trần Phong Giao.

Nhân nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Hoài Thư và Da Màu đề cập đến Trần Phong Giao, tôi cũng xin góp tay ghi lại một vài kỷ niệm. Riêng và chung. Gọi là nhắc nhớ.

Nhắc nhớ một người đồng thời nhắc nhớ về một tờ báo mà cũng là nhắc nhớ về một thời.

Nhắc và nhớ.

Nhắc để nhớ.

THT (từ Da Màu)