Lời tòa soạn: Vũ Thị Thanh Mai sinh trưởng trong gia đình Bắc di cư vào Nam ngay sau Điện Biên Phủ. 1954 một thế hệ lìa quê tìm đường sống. 1979 một thế hệ khác ra đi để làm người tự do. Những trang ký ghi lại tâm tình của lúc xuống tàu trong đợt xuất cảng người “bán chính thức”.

Viết cho mẹ và Lưu-Linh Vũ

Ðêm như con tàu lắc lư hoài chẳng đến đâu. Khi mình ngủ ngồi cứng ngắc, ra vào giữa tỉnh và mê, đêm dài vô tận. Giật mình thức giấc mấy lần vẫn còn đêm, vẫn ngồi cứng ngắc. Tôi thấy tù túng, chật chội, bực bội, khát nước. Nhưng quanh tôi không có nước, chỉ nghẹt người. Tôi mở túi xách mò cây sâm nhung bố cho, nhưng đã bị ăn cắp mất. Ai lại ăn cắp ngay trên tàu. Tôi bật khóc. Tôi hoàn toàn không muốn khóc, nhưng những tiếng nấc không chịu ở lại trong cổ họng và nước mắt cứ trào ra. Em Chi trèo qua cửa sổ bám thành đi tìm mang về cho tôi một ly nước. Hú vía. May mà nó không sao.

Ði được hai ngày, tôi thèm ly cà phê sữa đá quá. Thèm nằm dang tay dang chân, duỗi thật thẳng thật dài. Hoặc nếu được nằm co rút thì cũng đỡ. Cả ngày chỉ trông đợi được phát vài thìa nước, vài thìa cháo. Nghe nói chủ tàu dành lại nước uống và thức ăn cho gia đình họ. Dù gì vẫn không thể hiểu sao chủ tàu không bớt vé, chừa chỗ chứa thêm nước để chia sẻ với người đồng hương đồng nạn. Lênh đênh bất định trên biển, nước ngọt là sự sống. Với số vàng khổng lồ thu được, chia với công an, đóng tàu xong, vẫn còn vô số vàng. Cuối cùng, đám thuyền nhân chỉ là những con số trong bài tính bội thu tối đa giữa chủ tàu và công an. Sự bất nhân mà vẫn luôn xảy ra và còn được khuyến khích trong chế độ.

Người ta la to mừng rỡ, “Có tàu! Có tàu!”

Khoang tàu như sống bừng dậy. Chúng tôi hớn hở đứng lên, nhốn nháo. Ai gần cửa sổ thì trợn to mắt nhìn xem tàu nước nào. Tôi vuốt tóc sửa áo, nghe ngóng. Không ai đánh giá bề ngoài của thuyền nhân, nhưng được chỉnh tề thì vẫn hơn.

Rồi như một con sóng cao ngút đập xuống đầu, một giòng nước ngầm xoáy mình ra biển, âm thanh xé không gian, “Cướp! Cướp!”, và cả khoang tàu chới với. Bên ngoài cửa sổ, tuy vẫn còn một khoảng cách, chiếc tàu hải tặc Thái hiện ra như thần chết.

Người ta mau mắn cởi nữ trang vàng bạc đem giấu. Tôi chỉ có hai túi áo, không còn chỗ giấu nào khác, không muốn đoán việc gì sắp xảy ra, chờ người lớn chỉ huy.

“Ðàn bà con gái xuống hầm mau!”

Ðám phụ nữ run sợ xô nhau về phía lỗ thông hầm, lục tục nhảy xuống, gấp gáp té lăn cù. Ðứng dậy nhìn quanh, nhìn tới nhìn lui, không thấy có chỗ nào để trốn. Ðịa ngục từ đâu chớp ra ngay sát mũi.

“Mấy cô quỳ xuống để thanh niên ngồi lên che!”

Ðám phụ nữ lúng túng bò rạp trên mặt đất ôm đầu giấu mặt. Các ông ngồi đại trên lưng chúng tôi. Mẹ dặn đi đường nhớ niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Tôi cầu xin đám hải tặc không sang, nhưng tầng trên vọng xuống những âm thanh huỳnh huỵch, tiếng gỗ đay nghiến, tiếng quát tháo xi xô. Chỉ còn thiếu tiếng nạn nhân kêu thét giãy giụa. Tôi vẫn không ngừng niệm, “Nam Mô Quán Thế Âm”, “Nam Mô Quán Thế Âm”,trí tưởng quay về tượng Bồ Tát Quan Thế Âm trên bàn thờ, về căn phòng thờ các tượng Phật, tổ tiên và bà nội. Bà nội biết tôi có lòng tin. Năm tuổi, sáng sớm tôi đã theo bà hái hoa đại bày cúng, rồi quỳ chắp tay nghe bà tụng kinh. Tôi luôn giữ lòng tin bà đã cho tôi. Dù tai nghe những bước chân đến gần, và thân thể run. Dù âm thanh xi xô quát tháo dần vang sát bên. Và đám cướp Thái xuống mười mấy  tên đang đứng giữa chúng tôi.

Xem thêm:   Suy Đi Ngẫm Lại (04/11/2024)

Gã trước mặt tôi vẻ mặt bậm trợn, nước da sạm nắng của dân đánh cá, tay khua con dao ngắn. Tôi tháo chiếc đồng hồ trên tay, chiếc đồng hồ Omega mẹ rất thích đã cho tôi làm kỷ niệm. Tôi tháo kim tây ghim túi áo đưa luôn xấp tiền đô, đằng nào cũng phải đưa. Trên người chỉ có vậy, câu chú niệm không ngừng, tôi chờ gã cướp biến đi. Nhưng gã còn chưa đủ, thò tay vào áo ngực tôi sờ nắn. Tôi nhớ hôm cô tôi đi, cô may áo nịt ngực có chỗ nhét vừa một lượng vàng, thì ra không còn là bí mật.

Gã quay sang em Chi, con bé vẫn tính gan lì, nét mặt sợ hãi lẫn giận hất cánh tay muốn mò áo nó. Tôi thót tim sợ gã đâm em tôi, nhưng gã bỏ sang người kế. Hầm tàu mấy trăm người im lặng chịu đựng. Cả lườn tàu cũng bị soi mói rờ rẫm xem có vàng giấu bên trong. Tại sao không ai chống cự?

Ðám cướp bỏ đi rồi, chiếc tàu xác xơ, con người xốc xếch. Tôi không nghe ai khóc lóc, có lẽ họ cũng nghĩ như tôi, may không hãm hiếp giết người. Có lẽ đây là lý do chín trăm người để yên cho đám cướp độ hai mươi người bóc lột. Chúng tôi chịu đựng bóc lột tàn nhẫn của Cộng sản đã bốn năm, nhẫn nại thêm ít lâu sẽ đến bến bờ tự do, không ai muốn bỏ mạng giữa đường.

Vậy là đã vào đến hải phận Thái Lan. Kế tiếp là Mã Lai. Tôi leo lên boong tàu chờ thấy đất liền. Nắng buổi sáng vẫn chưa nóng mấy. Tôi hít thở mạnh gió vào buồng phổi, nghe sự sống lan chảy trong mình. Giờ này lẽ ra đang ngồi trong lớp học, chắc Vũ đã biết tôi không trở về hay Vũ còn chờ xem tôi có bị lừa bị bắt lại, chắc Vũ không thể tưởng tượng tôi gặp cướp Thái Lan, chắc Vũ đang khổ tâm, giá Vũ đi với tôi. Nhưng tôi lại ở cao trên biển, hiện tại đã cắt ngang như không còn dính líu đến tôi, tương lai chưa có mặt mũi.

Người ta la to, “Có tàu! Có tàu!”

Chiếc tàu vẫn còn xa, chưa rõ lắm. Ai cũng quay đầu trố to mắt nhìn cùng hướng cho đến khi chiếc tàu hiện đủ rõ trong tầm nhìn. Mười mấy gã Thái tay cầm dao dài dao ngắn hướng về chúng tôi.

Người ta la to, “Cướp! Cướp!”

Chưa nghe ai bị cướp hơn một lần, tuy nhiên những vụ đó đều thảm khốc.

Chúng tôi bị cướp nhiều lần trong ngày hôm đó. Hẳn bọn cướp biết tàu tôi đã bị lột nên chỉ tùy tiện khám xét. Chuyến cuối xảy ra lúc hoàng hôn. Một chị con lai chừng hai mươi tuổi bị gã Thái xốc trên tay bế đi. Chị giãy giụa như con cá mắc cạn, gào thét kêu cứu bằng tiếng Việt, rồi bằng tiếng Pháp. Gã bế chị đi dọc con tàu, mấy trăm người im lặng nhìn. Một thằng nhải con nhảy ra trước mặt tôi, cao khoảng tôi, miệng cười cười, xi xa xi xô. Ðến phiên tôi gào thét kêu cứu, chỉ theo bản năng, lúc nãy không ai cứu chị con lai. Thằng ranh con vẫn tươi cười xi xô, đưa hai ngón tay lên ra vẻ cặp đôi, như nó muốn tôi theo nó làm cướp biển. Ðầu tôi niệm Bồ Tát Quan Thế Âm, mắt nhìn xuống biển, tin chết đã tới mình. Lúc này chạng vạng, nước biển xám lạnh, chìm giữa đại dương bao la sẽ rất tăm tối cô đơn, nghĩ thương bố mẹ và ba đứa em đi cùng. Tôi không ngừng la hét, tôi cũng có khả năng kêu cứu bằng tiếng Pháp, nhưng cả hai ngôn ngữ đã không cứu chị con lai. Túng quá, tôi quay sang tàu Thái đang cặp sát, vài người đang bận rộn, và tôi chạm vào một đôi mắt có ý thương hại. Ðôi mắt nhìn đăm đăm tôi, không rời, dù hai tay không ngừng kéo dây thừng, gương mặt không ác. Tôi nhìn đăm đăm trả lại cùng những âm thanh van xin hắn không cần hiểu. Nhìn cho đến khi hắn buông dây thừng, nhảy sang, đi về chỗ tôi. Nhìn hắn nói vài câu với thằng ranh con vẫn không ngừng xi xô. Nhìn cho đến khi cả hai bỏ đi và biết mình thoát nạn.

Xem thêm:   Bên hồ Thác Bà

Ðêm trên biển yên bình vì không thấy đánh cướp ban đêm.

Thêm một ngày bị cướp từ sáng đến chiều. Tàu Thái cuối cùng đã đánh cướp ban sáng, nhận ra chúng tôi chỉ đi vòng vòng trong hải phận Thái, nên bị cướp liên tục. Tổng cộng hình như mười một lần. Không còn gì để cướp, cạn nước, chỉ còn xác xơ đói khát. Hai bên múa tay múa chân cho đến khi ra vẻ thông hiểu. Tàu Thái bày ra mấy mâm cơm, vẫy mời, thấy người ta nhảy sang bốc cơm, chị em tôi cũng nhảy theo. Nghe nói thì ra tài công không chuyên nghiệp và không có cả la bàn, đám cướp thương hại cho la bàn, nước, và chỉ đường ra khỏi hải phận Thái. Không nhờ vậy, tàu sẽ luẩn quẩn thêm mấy ngày và tất cả sẽ chết vì kiệt quệ. Có lẽ ngư phủ Thái làm hải tặc run rủi. Bán chính thức. Chính phủ Việt Nam chính thức thu vàng, tống người. Còn chúng tôi là những kẻ trốn chạy.

Trên hải phận quốc tế, chúng tôi gặp một tàu ngoại quốc trắng trẻo đẹp đẽ. Mọi người nhốn nháo chồm sang. Ba của Ngọc đứng ra nói chuyện bằng tiếng Anh với ông thuyền trưởng. Ông ta không cho chúng tôi qua, nói sẽ kéo tàu chúng tôi vào đảo. Nhưng đi được một lúc thì họ lại cắt dây bỏ rơi chúng tôi. Có lẽ không xin được phép cập bến. Chiếc dây thừng đứt đoạn lê trên mặt sóng trả chúng tôi về cho quỷ thần, và chúng tôi thu mình chịu trận chờ Trời Phật hiển linh. Tôi nhìn dây thừng đứt đoạn như tóc mình trôi trên mặt sóng, xoắn xít vật vã oằn oại và chìm xuống.

Biển tháng Tư không có một ngày mưa, dù cũng có lúc phủ mây.

Họ nói nước chỉ dành cho người bệnh, sắp chết.

Xem thêm:   Kinh đô thời trang Roma

Người ta dồn lấn vào khoang, không khí ngột ngạt, ba chị em tôi ra boong tàu, ai biết cần trốn nắng, chỉ em Long ở lại trong khoang với anh Thành quen với mẹ.

Em Chi mệt mỏi nằm lăn ra ngủ. Con bé nước da trắng tuyết, bình thường không ăn nắng, hai má cháy đỏ au. Ông cụ ngồi trong khoang thương hại bảo đứa cháu bé ra đút cho nó ba thìa nước. Nó tỉnh dậy mắt nhìn ngơ ngác. Tôi đã không biết làm gì giúp em Chi.

Em Lan ngồi im như đứa trẻ bị phạt. Tính nó nhút nhát, nhà gọi nó là gà tồ. Cô gái bên cạnh gối đầu lên đùi nó ngủ ngon lành cả đêm, nó vẫn ngồi không động đậy. Anh Chi con út cô Ðào chui lên từ hầm, thấy tội nghiệp, đánh thức cô ta dậy và rầy “sao nằm lên người em tôi!” Tôi cũng đã không biết làm gì giúp em Lan.

Tối, anh Xâm và anh Bích con cô Ðào trộm được chút nước của chủ tàu, đem cho chúng tôi.

May mà có các anh. Tôi nhận ra mình không phải người tháo vát, không biết chăm sóc các em, luôn trông chờ vào sự sắp đặt của người lớn. Có lẽ mẹ thương tôi cái tánh biết vâng lời, không bao giờ để bị rầy bị phạt. Có thể mẹ nuông chiều chúng tôi không để động móng tay vì bà mồ côi sớm, tuổi nhỏ vất vả còn bị đánh đập hành hạ. Có lẽ bố cưng tôi vì tôi giống ông, tuy không thừa hưởng tính đảm đang của mẹ. Chị Ba, chị Thu và cô Thân ở trong gia đình tôi mấy mươi năm, chăm sóc anh chị em tôi như con em ruột của họ. Giờ chị em tôi tập tành làm người lớn với trông chờ lòng trắc ẩn của người dưng.

Ngày thứ năm, một người bệnh chết, xác quăng xuống biển. Chết trong những tia hy vọng của một đời sống tự do còn chưa kịp tắt. Xác bơ vơ, chắc hồn quay về nhà. Khi những giá trị đời sống không còn liên quan, ai muốn xa xứ sở.

Ngày thứ sáu, chị lai Pháp mê sảng kêu khóc, gọi mẹ. Tất cả những dồn nén vỡ ra từ cô gái vừa qua tuổi vị thành niên, trong cơ thể đói khát nóng sốt, giữa chín trăm người thiểu não dửng dưng và một đại dương lạnh lùng.

Cứ như vậy thì không biết còn gắng gượng được bao lâu. Những nhớ nhung theo ký ức cạn khô.  Tâm tư tôi là những khoảng trống mênh mông trong thời gian bất động. Giữa những khoảng trống là cơn thèm khát một ly cà phê sữa đá.

Ngày thứ bảy, chúng tôi thấy đất liền. Không cần biết nơi này là đâu và chứa sự sống gì. Chủ tàu lên kế hoạch đợi tối đục tàu bơi vào bờ để không bị đuổi ra. Khi ánh trăng chỉ đủ sáng để nhìn thấy bàn tay trước mặt của mình, chúng tôi ra nhảy xuống tàu bám nhau bơi vào bờ. Cũng không sâu, nước cao chừng đến cổ tôi. Bộ óc đơn giản của tôi nghĩ sẽ được đưa đến trại tị nạn, giống anh cả đi chui năm ngoái đã được tạm trú trại Pulau Bidong, có thức ăn chỗ ở và sẽ được bảo lãnh.

Khi chân chạm cát, tôi nghe sức sống dâng tràn, cảm giác tự do bừng lên. Chết và Cộng Sản đã sau lưng.

VTTM

Buena Park tháng 4, 2021