Lời Giới thiệu: Nhà thơ Trần Mộng Tú cho hay ngày 10 tháng 12 năm nay ở California nhóm thân hữu sẽ tổ chức mừng 100 tuổi nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Trẻ xin chúc mừng tuổi thọ của nhà văn, nhà giáo Doãn Quốc Sỹ, một người đã để lại sự quý trọng trong lòng các thế hệ sau.

Sau đây là bài của Trần Mộng Tú viết về một trong những tác phẩm nổi tiếng của Doãn Quốc Sỹ.

Mừng sinh nhật nhà văn Doãn Quốc Sỹ 100 tuổi

Tuổi thơ của tôi được may mắn lớn lên trong thế giới Thơ của Thi Sĩ Trần Trung Phương, là chú ruột tôi, một thi sĩ của nhi đồng cho học trò tiểu học. Những câu Thơ thật trong và thật hiền.

Khi tôi lên 9 lên 10 tôi đã cả ngày nghêu ngao:

Mặt trời như quả cà chua

Chiều nay rụng xuống mái chùa làng ta

Ô hay! em thấy chiều qua

Mặt trời say rượu ngọn đa đầu đình.

Hoặc

Me ơi cái hộp sữa

Ðể trong bát chiết yêu to nước tràn

Thế mà đàn kiến khôn ngoan

Bắc cầu sợi tóc bò sang Me kìa.

Khi qua tuổi lên mười, bước vào trung học, xen kẽ với những sách dịch từ những tác phẩm ngoại ngữ nổi tiếng như Chiến Tranh và Hòa Bình, Ðỉnh Gió Hú, Giã Từ Vũ Khí, Anh Em Nhà Karamazov v.v. Những tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ là những cuốn sách luôn luôn cha mẹ tôi tìm thấy trên giường, trên ghế, trên kệ, trên bàn ăn, trên bàn học của tôi và đôi khi trong bếp. Những tác phẩm này đã đóng vai trò phụ thân thứ hai trong đời sống trưởng thành của tôi. Những trang sách văn chương trong sáng, trung hậu đã dạy tôi những điều nhân nghĩa, ngay thẳng và đạo làm người. Tôi chắc chắn là những ai đã từng đọc Doãn Quốc Sỹ cũng được hưởng cái tinh thần đạo đức trong từng câu văn của tác giả. Tôi không may mắn là học trò trực tiếp của Thầy Sỹ, nhưng tôi là học trò trong mỗi tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

Một đoạn văn ngắn trong Chiếc Chiếu Hoa Cạp Ðiều dưới đây đã in sâu vào tâm hồn tôi qua mấy mươi năm.

Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Ðáy tiến sâu vào huyện Lập Thạch đốt phá một ngày rồi rút lui về tỉnh. Cánh quân tiến sang tả ngạn sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng rút về vị trí cũ bên hữu ngạn. Dân chúng chạy loạn lục tục đâu trở về đấy ngay để còn kịp sửa soạn Tết. Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh. Trưa hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà thấy cong queo dưới hầm trú ẩn một chiếc chiếu hoa cạp điều.

Ðúng là chiếc chiếu của một gia đình chạy loạn nào khi về mừng quá bỏ quên. Mẹ tôi nói: “Thôi thế cũng là giời thương mà cho nhà mình!”

Ðã lâu lắm, đêm đó tôi mới được thấy thằng em út tôi chiếc chiếu đắp kín chân không trông thấy đôi bít tất buộc túm chỗ rách. Sáng ra, mẹ tôi cẩn thận gấp chiếu rồi vắt lên chiếc dây thừng căng cao ngang mái nhà. Thế là từ đấy đêm đêm nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu hồi tôi cũng yên chí cho các em đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp.

Nhưng chiếc chiếu hoa cạp điều đó thuộc về người khác.

Xem thêm:   Đi tìm lăng mộ Antoine & Cléopâtre

ông (Lý Cựu) ngửng nhìn thấy chiếc chiếu hoa cạp điều vắt ở dây thừng, ông đứng nhỏm dậy chạy lại kéo tuột xuống nói gọn:

– Chiếc chiếu này của tôi! Mẹ tôi chợt có một cử chỉ phản ứng, y như sự phản ứng của một người mẹ gìn giữ con trong cơn nguy biến.

Người nói: – Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi… Mẹ tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người chỉ nói được đến đấy thì lương tâm Phật tử trở lại và người lúng túng quay nhìn ra ngõ.

Ông Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn dưới nách rồi thản nhiên nói: – Không, chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi chiếu cạp điều này từ năm mới tác chiến, một chiếc còn trên kia.

Thì ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông chủ nhà trong dịp vừa qua, rồi những người đến chạy loạn tự động mượn đem ra trải ở bụi tre nghỉ tạm. Lúc về vì chiếu rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không trả lại chỗ cũ. Tuy chỉ một thoáng qua nhận biết hết sự thể là vậy nhưng tôi vẫn chưa chịu và tiếp lời mẹ tôi: – Chiếc chiếu này mẹ tôi mua của một người ở chợ Lầm. (Ý tôi muốn nói người đó lấy chiếu ở đây mang ra chợ Lầm bán.)

Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách cương quyết: – Không, chiếc chiếu này của tôi! Rồi ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó vợ tôi cũng vừa trở lại với tôi để nhớ ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra thẩm phán. Tôi thoáng nghe phía sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào buồng. Tối hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách cũ vớt ở lạch đắp cho thằng em út, mẹ tôi chép miệng nói khẽ:

– Thôi, sang Giêng trời bắt đầu ấm, vả lại cũng sắp tổng phản công rồi! “Vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!” – Mẹ tôi nghĩ thật chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang độc lập, để mọi người được trở về dựng lại quê hương yên vui. Tôi hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác, cũng như chúng tôi, chịu đựng bao nhục nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều. Tất cả những hy sinh đó – kể cả khi hy sinh một chút ít danh dự do sự yếu đuối thường tình của con người – tuy dằn vặt, ray rứt mà không tàn phá nổi niềm vui trong sáng, thanh thản của tâm hồn, vì ai nấy sống ngợp hy vọng một ngày mai vinh quang.

Sớm Mùng Một năm đó, mẹ tôi ra chùa lễ. Người quỳ rất lâu trước bàn thờ Phật. Giọng người thành kính thiết tha cầu Ðức Phật phù hộ cho chóng trở lại yên bình, gia đình được qua thì đói, khỏi thì loạn. Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe, nước mắt muốn trào ra.

Tôi đọc tới đây nước mắt cũng trào ra. Thương cho nhà văn, thương cho người dân Việt trong một đất nước triền miên chiến tranh và thương cho cả chính mình cũng đã lớn lên từ chiến tranh.

Xem thêm:   Máy làm biếng

Tôi là một người cầm bút may mắn vì tuổi thơ của tôi được trưởng thành với những dòng thơ trong sáng của Thi Sĩ Trần Trung Phương, nhờ những câu Thơ:

Mặt trời như quả cà chua của Trần Trung Phương mà mấy chục năm sau có câu thơ:

Buổi sáng trong như ly nước lọc

Lòng thấy hiền như một củ khoai của Trần Mộng Tú.

Nhờ có Chiếc Chiếu Hoa Cạp Ðiều và những tác phẩm trung hậu, đạo đức tràn đầy lý tưởng khác của Doãn Quốc Sỹ mà trong suốt mấy chục năm cầm bút tôi vẫn giữ được cái tâm trong sáng, cái tâm lành ở mỗi chữ mình viết xuống.

Xin cám ơn nhà văn Doãn Quốc Sỹ và chúc người sống an vui khỏe mạnh đến cuối đường.

TMT (Ngày 10 tháng 12 năm 2022)

Tiểu Sử (Theo trang nhà của DQS)

Doãn Quốc Sỹ lấy tên thật làm bút hiệu. Ông sinh ngày 17/02/1923 (nhằm ngày Mùng Hai Tết Quý Hợi) tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, ngoại thành Hà Nội.

Thuở còn là thanh niên, ông từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Sau đó, khi phong trào này để lộ bộ mặt cộng sản, ông đã rời bỏ kháng chiến. Vào năm 1946, ông lập gia đình với bà Hồ Thị Thảo, là ái nữ của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, Hồ Trọng Hiếu.

Năm 1954, khi hiệp ước Geneva chia đôi đất nước, ông theo làn sóng di cư đem vợ con vào miền Nam sinh sống.

Xem thêm:   Sứa hương vị của biển

Ông đã dạy tại các trường: Trung Học Công Lập Nguyễn Khuyến (Nam Định 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội), Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn 1961-1962), Trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Ông cũng từng là Hiệu trưởng trường Trung Học Công Lập Hà Tiên (1960-1961) và từng đi tu nghiệp về sư phạm tại Hoa Kỳ (1966-1968).

Năm 1956, ông đồng sáng lập nhà xuất bản Sáng Tạo, và tạp chí văn nghệ cùng tên với Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh và Ngọc Dũng. Ông vẫn ưu ái gọi nhóm văn nghệ của mình là “Thất Tinh”. Ông có bài đăng trên các tạp chí văn nghệ như Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa, Văn Học, Nghệ Thuật …

Gần một năm sau ngày miền Nam thất thủ (30/04/1975), Doãn Quốc Sỹ cùng các văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế, Chóe… bị giam tại trại Gia Trung. Đến năm 1980, ông được trả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế. Ông đã bị bắt lần thứ hai vào tháng 5 năm 1984, chỉ vài tháng trước ngày đi Úc do con gái bảo lãnh. Ông bị kết án 10 năm tù và mãn hạn tù lần thứ hai vào tháng 11 năm 1991 do gửi chui tác phẩm qua Pháp để in.

Năm 1995, ông được con trai là Doãn Quốc Thái bảo lãnh để di dân sang Houston, Hoa Kỳ. Ông hiện sống tại Quận Cam, California.