Thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, bút hiệu Sao Trên Rừng, gốc Thừa Thiên Huế. Sinh năm 1937 tại Ninh Chữ, Ninh Thuận (Phan Rang). Ông từng theo học Đại học Văn khoa Sài Gòn nhưng nửa chừng bỏ học. NĐSƠN viết trong tập thơ Những Bài Tình Đầu: Sống vô gia cư, chết vô địa táng, và tuyên bố: Nếu trường Đại học Văn khoa Sài Gòn sản sinh ra được một nhà văn nhà thơ nổi tiếng tôi xin chịu chặt đầu.

Trước năm 1975, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm thơ, truyện ngắn nổi tiếng: Những Bài Tình Đầu, Đêm Nguyệt Động, Mộng Du, Cái Chuồng Khỉ, Cát Bụi Mệt Mỏi…

Ông ở nhiều nơi Phan Rang, Sài Gòn, Bình Dương-Thủ Dầu Một, Blao-Lâm Đồng và sinh sống bằng nghề dạy học. Sau năm 1975, về ở hẳn tại Phương Bối Am, Blao-Lâm Đồng. Ông nổi tiếng là lão thi sĩ vạn thông (vì ông trồng một vạn cây thông) với biệt danh Sơn Núi.

Ông ra đi đã một năm để lại tác phẩm cuối cùng Thơ & Đá do Phương Bối con gái ông và Đào Nguyên Dạ Thảo hợp lực xuất bản. Sau đây, Trang Văn Học xin trích giới thiệu bài viết của Nguyễn Đạt như một tưởng niệm gởi đến ông. NGUYỄN & BẠN HỮU

Cuộc sống của Nguyễn Ðức Sơn trên trái đồi nằm cuối dãy núi Ðại Lào hẳn nhiên là cuộc sống của người làm rừng làm rẫy, bám vào cỏ cây nương rẫy mà sống. Chúng tôi từng chứng kiến, Nguyễn Ðức Sơn đẩy chiếc xe đạp cọc cạch, thồ đống củi cao hơn thân mình, từ đồi rừng ra chợ cách xa gần mười cây số để bán. Chỉ có cách kiếm sống như vậy, cho một gia đình đông con; làm sao Nguyễn Ðức Sơn, với vợ yếu và đàn con thơ dại, không nhếch nhác tơi tả? Nhà thơ Thái Ngọc San, đã mất, sau khi lên thăm Nguyễn Ðức Sơn ở đồi Phương Bối (tên do thầy Nhất Hạnh đặt), đã viết truyện ngắn “Bầy Thú Hoang Dã”, cho thấy cảnh sống của gia đình Nguyễn Ðức Sơn lúc ấy không khác biệt bao nhiêu với đời sống của loài thú rừng.

Xem thêm:   Nguyễn Thanh Châu là rồi một chuyện kể chưa xong

Từng gần gũi Nguyễn Ðức Sơn nhiều ngày tháng, chúng tôi hiểu rõ nhà thơ Nguyễn Ðức Sơn không hề có dã tâm của loài thú, để tạo nên cuộc sống như Thái Ngọc San đã ghi nhận; đó chỉ là một cuộc sống cực-chẳng-đã phải như vậy mà thôi, muốn khác đi cũng không được. Nguyễn Ðức Sơn không biết làm gì khác để thay đổi cuộc sống như bầy-thú-hoang-dã; ông lại càng không thể tính toán, bon chen, giành giựt với nhân thế. Trên trái đồi rộng bốn – năm héc-ta, ông không biết và cũng không ưa trồng loại cây nào cho có lợi nhuận, ngoài cây thông mà ông yêu thích…

Nguyễn Ðức Sơn đã bảo vệ tới cùng một tổ chim trên cây rừng Phương Bối bị đám người có hung khí tới phá phách. Lần đó Nguyễn Ðức Sơn bị đám người này dùng dao đâm ông, chỉ nửa phân nữa là trúng con mắt. Dân cư quanh vùng biết Nguyễn Ðức Sơn lúc nào cũng ưa đọc sách, nhưng thấy ông không cho các con ông đi học; biết ông, nửa đêm lạnh giá, xách đèn pin đi khắp đồi thông; nghe tiếng ông la hét cằn nhằn vợ con vang dội khắp bốn bề; nghe chính con ông kể chuyện những kiểu tra tấn đánh đập vợ con: treo con lên xà nhà; bắt lũ con nằm thành hàng để ông đi xe đạp cán qua; bóp cổ vợ; đập gậy sau lưng khi vợ đang vo gạo… Từ những chuyện như vậy, ông nổi tiếng là “Người trồng thông quái dị”; kinh khủng nhất, mọi người cho là ông vô tâm, tàn ác, không mảy may thương xót vợ con. Ðây là một ngộ nhận đáng sợ đối với bất cứ người nào; huống hồ người đó lại là một nhà thơ.

Xem thêm:   Nhà văn và người lính Cao Xuân Huy

Không có chuyện tra tấn đánh đập vợ con như một hai người con của Nguyễn Ðức Sơn đã nói; đấy là câu chuyện hoang tưởng của con ông mà thôi; chính Phượng xác nhận với chúng tôi như vậy. Nhưng nếu ai hỏi Nguyễn Ðức Sơn chuyện này, thì ông lại xác nhận; không những như thế, ông còn tô vẽ thêm lên cho thật ghê rợn. Ðây chính là một trong nhiều tính chất đặc dị của nhà thơ “kỳ nhân” Nguyễn Ðức Sơn.

Nguyễn Đức Sơn trên đồi Phương Bối

Sự thật mà chúng tôi biết, Nguyễn Ðức Sơn đầy tình cảm yêu thương con người, như mọi người thiện tâm khác. Lần Phượng bị bệnh thập tử nhất sinh, phải giải phẫu tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi ngồi bên ông, ngoài hành lang trước phòng giải phẫu. Ông rất căng thẳng chờ đợi kết quả phẫu thuật. Chợt có tiếng cô y tá kêu lớn tên ông: nước mắt ông tuột ra, chảy dài trên khuôn mặt. Ông ngỡ cuộc phẫu thuật thất bại, Phượng đã chết! Hoá ra không phải, cô y tá gọi ông để báo tin lành. Và Nguyễn Ðức Sơn nhảy cẫng lên, như đứa trẻ vui mừng tột độ.

Lần một đứa con của Nguyễn Ðức Sơn bị bệnh nằm liệt giường, chúng tôi cũng có mặt trên đồi Phương Bối. Ông cuống cuồng, chạy xuống đồi, hỏi người này người kia để chữa chạy kịp thời cho con. Có người bày cách, cho người bệnh ăn thịt cóc sống. Ông hét vang như hoá điên, vì gặp ngay người bán thịt cóc đi ngang qua. Mang thịt cóc về, cho đứa con ăn ngay; chợt ông nhớ cả gia đình vốn ăn chay trường, ông vội vã thắp nén nhang niệm Phật, xin xá tội! Ðứa con vừa nuốt miếng thịt cóc, lập tức nôn mửa thốc tháo. Ông lại cuống cuồng, lại chạy xuống đồi, kêu “xe ôm”, ôm con ngồi lên xe đưa vào bệnh viện. Ở bệnh viện, lúc đứa con đã an toàn, đã đi đứng trở lại; bấy giờ mới để ý: ông chỉ mặc cái quần cụt mà lại thủng rách cả đũng! Nhưng Nguyễn Ðức Sơn lúc đó vui rộ lên, nói lắp bắp những câu hí lộng về cái quần thủng rách!

Xem thêm:   Bùi Vĩnh Phúc & ‘9 khuôn mặt. 9 phong khí văn chương’

Chúng tôi biết cả ba người văn nghệ độc đáo nhất của Miền Nam tự do, ba “kỳ nhân văn nghệ” như nhiều người đã gọi: Bùi Giáng – Phạm Công Thiện – Nguyễn Ðức Sơn. Cả ba đều thương yêu hết mức con người. Bùi Giáng thì đã giã biệt cõi-hồng-trần từ lâu; Phạm Công Thiện mới qua kiếp nhân sinh, chắc hẳn lúc này hương hồn ông đã nhập vào con bướm trắng tung tăng trên cỏ.[*] Và Nguyễn Ðức Sơn, lúc nào chúng tôi cũng hình dung ông đang chống gậy, đi mải miết giữa những hàng thông trên đồi Phương Bối; hình dung ông Ngàn sau / Phơ phất gò bông lau.

Một đêm sao ở trên trời

Thi nhau rụng xuống bên đồi cây hoang

Lao xao như nắng thiên đàng

Phấn thông hiu hắt bay vàng hồn tôi

Các em rồi sẽ xa xôi

Mình tôi ở lại bóng ngồi thiên thu

(Một mình)

NĐ