Nhiều kỳ – kỳ 3

Trong số những đồ đạc địch còn bỏ lại có một bàn tiếp hậu súng cối 82 ly, một chân ba càng súng 12.7 ly, gần chục quả đạn cối 82 ly chưa gỡ chốt an toàn, vài cái nón cối vỡ nát, vài cái ba lô rách bươm.

Tôi đọc được trong một quyển nhật ký những tin tức liên quan tới xuất xứ địch: Thì ra đây là vị trí phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn E 24 /Mặt Trận B3 Cộng-Sản.

Tháng trước chúng tôi đã đánh nhau với E 24 một trận rất dữ dội ở Chư Pa. Ngày đó Trung Ðoàn E 24 đã bị tổn thất nặng; nhưng tôi không ngờ họ đã được bổ sung và phục hồi nhanh quá!

Tài liệu cho tôi biết Bộ Chỉ Huy E 24 nằm ở đây cùng các đơn vị bảo vệ, nhưng không rõ những tiểu đoàn tác chiến của E 24 nằm chỗ nào?

Chắc chắn Trung Ðoàn E 24 này đã về bí mật ém quân cả tuần lễ trong khu rừng này.  Nơi đây chỉ cách làng Plei Blang 3 một cánh đồng cỏ và một thung lũng cạn. Phi cơ trinh sát của quân Ðồng Minh đâu ngờ địch dám cả gan về nằm sát nách đồn Dân Vệ Plei Blang 3 chưa tới hai cây số, và chỉ cách Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 4 Hoa-Kỳ không đầy một tầm hỏa tiễn 122 ly và 107 ly!

Tôi báo cáo tường tận những gì chứng kiến cho tiểu đoàn trưởng rồi đề nghị với ông ta cho tôi rút quân ra Plei Blang 3.

Ðại úy tiểu đoàn trưởng chấp thụận lời tôi ngay, nên chỉ một giờ sau hai đại đội của tôi đã có mặt trên Tỉnh lộ 509 chờ xe về Biển Hồ.

Chúng tôi ra tới mặt Tỉnh lộ 509 thì anh Trung úy Mỹ tiến tới chìa tay ra nói lời tạm biệt.

Anh ta chào tôi để trở về nhiệm sở, vì toán đề lô của anh ấy chỉ có nhiệm vụ đi theo tôi một ngày thôi.

Vài phút sau, một chiếc trực thăng đáp xuống, đón hai người lính Mỹ.

Ðúng mười giờ sáng Mùng Sáu Tết, từ hướng Pleiku, một đoàn xe Quân Vận chạy tới. Tôi cho hai đại đội chuẩn bị sẵn sàng.

Thấy chỉ có bốn chiếc xe GMC, nên tôi nhường cho Ðại Ðội 3/11 về trước, cùng những thương binh và tử sĩ. Ðại đội tôi sẽ di chuyển sau.

Nào ngờ ngay lúc đó, có tiếng trực thăng “Bạch! Bạch! Bạch!”

– Thái Sơn! Ðây Hoàng Mai!

– Hoàng Mai! Thái Sơn nghe!

– Thái Sơn cho thằng 3 về đi! Còn đơn vị của Thái Sơn có nhiệm vụ mới.

Trực thăng đáp, Ðại úy Ðàm chạy vội lại ôm tôi một cái rồi thấp giọng,

– Long chịu khó! Anh không muốn Long vất vả thêm. Nhưng đây là lệnh của quân đoàn!

Trong thời gian này, quân đội Ðồng Minh đang thực hành chiến thuật “Seek and Destroy” (Seek and Destroy= Lùng và diệt địch) nên thượng cấp đã chỉ định đích danh tôi, Trung úy Vương Mộng Long và Ðại Ðội 1/11 Biệt Ðộng Quân tiếp tay với Sư Ðoàn 4 Hoa-Kỳ cấp tốc truy lùng và tiêu diệt Trung Ðoàn E 24 Cộng-Sản.

Chúng tôi được lệnh khởi hành ngay sau khi nhận tiếp tế hai cấp số đạn và năm ngày lương khô loại C của Hoa-Kỳ.

Biết rằng,“Quân lệnh như sơn” tôi không có quyền cãi lại.

Chuyến đi này trang bị càng nhẹ càng tốt.

Tôi đành gửi khẩu cối 60 ly cùng hai anh xạ thủ khẩu súng này theo máy bay của anh Ðàm về hậu cứ.

Tôi báo cho anh Ðàm biết hiện thời tôi không còn tiền sát viên pháo binh đi theo. Lúc đó anh Ðàm mới ớ ra.

Anh hứa liều,

– Ðể mình về trình lại. Long cứ đi trước, mình sẽ thả đề lô xuống sau!

Nhận lệnh, mà trong lòng tôi cứ băn khoăn.

Tôi chẳng hiểu vì ý gì mà cấp trên lại bắt đại đội tôi làm công tác “lùng và diệt địch” này.

Muốn “lùng địch” thì cứ tung ra vài ba toán Trinh Sát hay Viễn Thám làm công tác này chắc chắn sẽ có kết quả ngay.

Còn đem một đoàn quân hơn tám chục người kéo nhau “Rồng rắn lên mây” đi tìm dấu địch thì chẳng thích hợp chút nào!

Còn bảo rằng nhiệm vụ của tôi là “diệt địch”  thì thật là vô lý! Một đại đội Biệt Ðộng Quân đơn độc giữa rừng thì làm sao mà “diệt” được một trung đoàn Việt-Cộng?

Cuộc săn lùng địch của tôi bắt đầu từ nơi bốn cái chảo gang địch còn bỏ lại.

Tình trạng của đơn vị tôi lúc này thật là nguy hiểm vì không có ai theo giữ hông, giữ lưng. Nếu bất ngờ bị địch phát giác, chúng tôi có thể bị bao vây ngay.

Chiến thuật của tôi là dò đường theo kỹ thuật “sâu đo”. Trung đội đi đầu sẽ cử ba khinh binh một đi giữa, một bên trái, một bên phải theo đường địch rút. Số người còn lại đi theo đội hình hàng dọc.

Ban chỉ huy đại đội với khẩu đại liên của Hạ sĩ Bổng cùng một trung đội sẽ đi cách trung đội đầu một khoảng cách chừng vài chục thước.

Trung đội đoạn hậu lúc nào cũng có một toán phục kích chống theo dõi.

Khi có lệnh của tôi thì đơn vị đoạn hậu này sẽ chuyển lên thay thế trung đội tiên phong, và trung đội đang đi với tôi sẽ làm công tác đoạn hậu. Cứ như thế chúng tôi theo dấu địch mà tiến.

Chúng tôi tiến vào một khu rừng cách đấy không xa và phát hiện một vị trí hầm hào chằng chịt. Quân trú đóng ở đây cũng cỡ một tiểu đoàn trang bị nhẹ. Ngoài những cái bếp cá nhân còn nghi ngút khói, không có dấu tích gì để lại. Nơi này coi như hậu quân của đơn vị phía trước, như vậy đây là tiểu đoàn trừ bị của Trung Ðoàn E 24.

Chiều Mùng Sáu Tết chúng tôi đổ xuống một cái dốc đứng nơi đầu nguồn một con suối lớn.

Tôi thấy đem cả đại đội chui xuống cái khe này thì chết như chơi! Nếu địch phát giác ta đang ở dưới khe, chúng sẽ bố quân hai bên bờ bắn xuống là ta tiêu đời!

Với địa thế này, bắt buộc tôi phải thay đổi đội hình.

Tôi cho Trung đội 3 tiếp tục đi theo dấu địch nhưng tự lo liệu an ninh đằng sau.

Tôi cùng hai trung đội còn lại dàn hàng ngang chiếm lĩnh đỉnh đồi hướng Nam con suối.

Ðỉnh ngọn đồi này là một khu đất rộng như một bình nguyên đầy cỏ hôi và cây thấp.

Tin tưởng rằng bây giờ đang còn là cuối mùa khô Cao Nguyên, chắc chắn đêm sẽ không mưa, và dấu địch sẽ còn đó, nên tôi cho anh em hạ trại đóng quân, sáng ngày sau sẽ tiếp tục lên đường.

Sáng sớm ngày Mùng Bảy Tết Kỷ Dậu tôi tới chân thác Ia Kha.

Trung đội 3 của Thiếu úy Biện đi dưới khe theo chân địch, đã báo cáo rằng, cách Thác Ia Kha hai trăm thước là nơi tụ hội của những con đường xe be đầy dấu giày vải đi rừng và dấu dép râu Trường Sơn do địch vừa để lại.

Tôi báo cáo chi tiết tin tức thu lượm được cho tiểu đoàn, đồng thời đề nghị hai hỏa tập tiên liệu phòng khi tôi chạm địch.

Tôi không có tiền sát viên pháo binh đi theo, muốn xin pháo yểm, tôi phải gọi qua tiểu đoàn, tiền sát viên của tiểu đoàn sẽ chuyển tiếp. Nếu phải đánh nhau, cần yểm trợ mà phải đi qua hai chặng đường liên lạc thì quả là rắc rối quá, tâm trí đâu mà lo điều quân, chỉnh pháo?

Tới trưa, Ðại úy tiểu đoàn trưởng thông báo cho tôi,“Quân đoàn ra lệnh cho Thái Sơn cấp tốc bám sát vết chân địch quân!”

Tôi bỏ ngoài tai cái lệnh thúc quân của quân đoàn, rồi án binh bên bờ Ðông của Ia Kha chờ đợi.

Sương chiều phủ kín, tôi cho quân lặng lẽ vượt thác Ia Kha tiến về hướng Tây. Ði được chừng một cây số, tôi dừng quân hạ trại.

Sáng Mùng Tám Tết Kỷ Dậu chúng tôi tiếp tục theo dấu địch. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã vào vùng của dân khai thác lâm sản.

Hiện thời tôi đã ở một nơi xa làng Plei Blang 3 gần mười cây số. Tôi cũng đã cách xa bộ chỉ huy tiểu đoàn bảy, tám cây số rồi.

Mặc dù bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng quân trên núi Chư Xang có cao độ 812 mét, nhưng liên lạc vô tuyến của tôi và bộ chỉ huy tiểu đoàn đã yếu dần, bởi vì máy truyền tin của tôi chỉ có ăng ten lá lúa, xung quanh tôi lại là rừng già, núi đá âm u.

Ðứng trên đỉnh đồi mà tôi nghe tiếng quân bạn còn rất khó khăn, nếu tôi tụt xuống lòng suối hay đi trong thung lũng sâu thì coi như vô phương.

Thế rồi sau khi đi lẩn quẩn, loanh quanh một hồi, chúng tôi đặt chân lên một con đường voi thồ nằm dưới tàn lá cao ngút, rừng núi hoang vu. Con đường thồ này theo hướng Tây Nam, dẫn tới một buôn làng cũ.

Ngay giữa ngôi làng này xuất hiện một đường chuyển quân nữa từ hướng Nam đi lên.

Nơi hai cánh quân gặp nhau, cỏ bị rạp xuống như một sân đá bóng, bao thuốc lá, bao bọc lương khô Trung Cộng vứt đầy. Chắc địch đã tập họp tại nơi này trước khi di chuyển tiếp.

Căn cứ vào những vết giày dép in trên mặt đất còn rất mới, tôi đoán rằng địch vừa rời khỏi chỗ này chừng một giờ thôi.

Tôi cho quân ngừng lại, chui vào bụi, rồi báo cáo sự việc cho tiểu đoàn. Sau đó chúng tôi tiếp tục theo dấu địch.

Ra khỏi vị trí tập trung chừng nửa cây số thì địch chia làm hai. Cánh quân phụ, ít dấu chân, thì rẽ về Bắc, cánh quân chính nhiều dấu chân hơn, tiếp tục đi về Tây Nam.

Tôi báo cáo tọa độ phân tán của địch cho tiểu đoàn rồi ngồi chờ lệnh.

Không lâu sau, tiểu đoàn cho tôi hay, vùng hướng Bắc của tôi hiện thời có một đơn vị Mỹ đang hành quân diều hâu, nhiệm vụ của tôi là cứ tiếp tục bám sát cánh quân chính của Việt-Cộng.

Ði được chừng vài trăm mét nữa thì trời tối, tôi cho dừng quân nghỉ đêm.

Nửa đêm chúng tôi bị đánh thức bởi tiếng bom chùm theo nhau nổ “Bùng! Bùng! Bùng! …”

Pháo đài bay B 52 vừa đánh một Box cách tôi chừng năm hay sáu cây số về hướng chính Bắc.

Mờ sáng B 52 lại đánh thêm một Box nữa cách tôi chừng năm hay sáu cây số về hướng chính Tây.

Sáng Mùng Chín Tết chúng tôi tiếp tục lên đường, dấu vết địch cho thấy chúng rút về hướng núi Chư Prong.

Tôi đoán chừng, đoàn quân này có nhiều thương binh đi theo, vì lâu lâu lại có những mẩu bông băng dính máu còn vương vãi. Có lẽ vì lý do này mà chúng đã di chuyển hơi chậm.

Chiều Mùng Chín Tết lại có thêm hai Box bom B52 đánh ngay chân núi Chư Prong và triền Tây của núi Chư Grêti.

Tối Mùng Chín Tết đại đội tôi đến bờ Ðông của suối Ia Brông. Lúc này quân của tôi đã cách Chư Prong chừng sáu cây số.

Chúng tôi vượt suối trong đêm, tiến thẳng về hướng Tây chừng nửa cây số.

Tôi giấu quân bằng cách cho anh em hàng một chui vào rừng cỏ hôi và gai mắc cỡ. Cả đại đội yên tâm ngủ, chỉ có một vọng gác đôi đặt ngay chỗ chúng tôi chui vào rừng.

Nửa đêm tôi lại nghe B 52 đánh hai đợt nữa, một ở hướng Tây Bắc, một ở hướng chính Bắc. Tôi có cảm tưởng rằng B 52 đang mở đường cho đơn vị tôi đi theo?

Ðầu tháng Giêng Âm Lịch, khí hậu Cao Nguyên đang còn trong thời gian lạnh nhứt.

Chúng tôi đi trong rừng, rừng âm u, giá buốt thấu xương, thèm thuốc lá lắm.

Trong túi tôi lúc nào cũng có cái bật lửa Zippo có khắc giòng chữ “Ta Là Vua”. Trong ba lô của Binh 1 Phạm Công Cường lúc nào cũng sẵn một cây thuốc lá Lucky không đầu lọc.

Vả lại, ngày Mùng Sáu Tết chúng tôi đã được tiếp tế năm ngày lương khô loại C của Mỹ. Mỗi khẩu phần loại C đều có một bao thuốc lá năm điếu Pall Mall.

Vậy mà từ trưa Mùng Sáu Tết cho tới bây giờ tôi vẫn nhịn thèm, không dám đụng tới cái Zippo và bao Lucky.

Thuộc cấp của tôi cũng vậy, từ ông Thiếu úy Trần Dân Chủ, đại đội phó, tới anh chàng nấu cơm cho tôi là Hạ sĩ Nguyễn Phượng Hoàng chỉ chờ tôi vẩy cái nắp bật lửa Zippo cho nó kêu một tiếng “Teng!” rồi thấy tôi bắt đầu đốt thuốc, là họ “nhào” theo ngay!

Nhưng tôi biết rõ, mùa này gió thổi từ Ðông sang Tây, một trung đoàn Việt-Cộng đang ở hướng Tây.

Nếu chúng tôi đốt thuốc lên, chắc chắn chỉ vài phút sau địch quân đã biết chúng tôi đang ở chỗ nào. Và chắc chắn không lâu sau, Thần Chết sẽ xuất hiện.

Tôi cứ tự nhắc nhủ rằng “Mình đang đi trong vùng địch. Bên trái, bên phải mình không có ai giữ hông, đằng sau mình không có ai đoạn hậu.”

Chi bằng “Thủ thân vi đại!”  cứ tự mình giữ lấy cái thân cho mình! Vì thế chúng tôi đành bấm bụng nhịn thèm.

Mờ sáng, tôi thức dậy khi nghe không xa về hướng Tây có tiếng máy thu thanh! Tôi lấy làm ngạc nhiên, tưởng mình đang còn ngủ, đang nằm mơ?

Nhưng rõ ràng tai tôi đang nghe ban nhạc The Animals trình bày bài “House of The Rising Sun”

Tôi thấy anh em đại đội đều đã thức và đang ngơ ngác như tôi, đang nghe nhạc giữa rừng già!

Tôi ngoắc tay cho Hạ sĩ Nguyễn Phượng Hoàng và Binh 1 Phạm Công Cường vạch rừng để ba người chui ra tìm nơi phát ra tiếng nhạc.

Ba thầy trò tôi chui ra một cánh đồng cỏ tranh rộng chừng hai trăm mét mỗi chiều. Bên kia bãi cỏ là một vạt rừng cây gai. Ðằng sau vạt cây gai có thêm một rừng cỏ tranh nữa. Quanh bãi tranh này có bờ đất đỏ đã được cơ giới ủi cao. Sau bờ đất là những khẩu súng đại bác 105 ly của Hoa-Kỳ!

Các ông lính pháo binh Mỹ đặt chân tới đâu thì nơi đó thành một cái chợ. Tôi đã nhiều lần đi hành quân chung với pháo binh Hoa-Kỳ nên không lạ gì cảnh này.

Cũng may! Nếu đêm qua tôi mà đi thêm vài trăm mét nữa là đâm đầu vào nơi trú quân của pháo đội Mỹ này rồi!

Ðêm tối không nhận ra nhau, chắc chắn thế nào cũng có người chết!

Không kịp báo cáo sự việc cho thượng cấp, tôi vội vàng, hối hả đem quân rời xa nơi đây càng nhanh càng tốt.

Cứ đội hình hàng một, chúng tôi đi như chạy về hướng Nam, bất kể, lên đồi, xuống dốc, qua suối qua khe!

Chừng hơn một giờ đồng hồ sau, nhìn thấy Tỉnh lộ 509 dưới chân ngọn đồi trước mặt, tôi cho anh em ngừng lại quây thành một vòng tròn, kiểm điểm quân số. May quá! Không có tổn thất!

Trong khi Binh 1 Nguyễn Thiên loay hoay thay cục điện trì mới cho cái máy truyền tin thì tôi lo gióng hướng tìm tọa độ chính xác nơi mình đang đứng.

Thì ra lúc này tôi đang ở một nơi cách Plei Blang 3 mười hai cây số về hướng Tây, và cách Chư Prong hơn bảy cây số về hướng Ðông Nam.

Thấy giờ này đang là ban ngày ban mặt, chắc chắn không có gì đáng sợ, nên tôi cho quân ngồi nghỉ để ăn cơm trưa.

Ðứng trên đỉnh đồi lộng gió, tôi thọc tay vào túi quần, lôi cái bật lửa Zippo ra. Ngón tay cái của tôi ép sát cái nắp Zippo, tay tôi vẩy nhẹ một phát thật điệu nghệ,

“Teng!”

Tôi vừa “Khai hỏa” thì lập tức đàn em của tôi cũng “Ðốt đuốc” theo. Ðỉnh đồi phút chốc nghi ngút khói trắng. Gió Ðông thổi ào ào! Khói thuốc tan nhanh theo gió…

Chúng tôi gân cổ rít khói cho đầy buồng phổi.

Sau khi nghỉ một hồi cho lại sức, tôi gửi một toán tiền sát xuống thăm thú con đường 509, thành phần còn lại chia nhau canh gác và nằm nghỉ ngơi cho khoẻ.

Hôm nay đã là Mùng Mười Tết rồi, ngày mai chúng tôi hết lương khô.

Nếu không được về Pleiku, chắc chúng tôi phải chờ tiếp tế.

Mấy ngày nay bận quá, tôi không có thì giờ rửa mặt, cạo râu, mặt tôi giờ này chắc là xồm xoàm râu tóc rất khó coi.

Chú Hoàng vừa xuống suối xách về một nón sắt nước cho tôi rửa mặt.

Nào ngờ, chưa kịp vục mặt vào nón nước mát, thì bên tai tôi có tiếng,”Xèo! Xèo! Oành! Oành! …”

Ðạn đại bác réo, đạn rơi ngay trên đồi!

Không ai bảo ai, mọi người vội nằm bẹp xuống đất để khỏi mất đầu.

Tôi với cái máy PRC 25 gọi cho tiểu đoàn. Trong máy chỉ nghe tiếng “Ẹc! Ẹc! Ẹc! …”

Ở nơi quá xa, máy của tôi lại không có ăng ten cao, nên không ai nghe được tiếng tôi kêu cứu.

Tôi nằm ngửa, nên thấy một chiếc trinh sát cơ L 19 đang bay vòng vòng trên trời.

Tôi chợt vỡ lẽ, chắc chắn chiếc L 19 kia chính là thủ phạm đang muốn giết tôi!

Tôi vặn cần máy PRC 25 qua tần số không lục rồi la lớn,

– Check Fire! Check Fire! We’re Rangers! (Ngưng pháo! Ngưng pháo! Chúng tôi là Biệt Ðộng Quân!”

Có lẽ người đang bay trên L19 đã thấy chúng tôi không phải là Việt-Cộng nên cho lệnh ngưng bắn.

Anh phi công đảo cánh một vòng sát trên đầu tôi, đưa tay vẫy vẫy chúng tôi vài cái trước khi bay về hướng Bắc.

(còn tiếp)