Ngày 23 tháng Ba năm 1970 tôi nhập viện xin giải phẫu vết thương cũ nơi sườn trái để lấy ra một mảnh đạn cối 82 ly.

Bác sĩ của Bệnh Viện 71 Dã chiến Hoa-Kỳ ở  Pleiku đã phải khoét một lỗ lớn cỡ lòng bàn tay bên sườn tôi, lấy mảnh đạn ra, rồi nạo hết thịt thối bám trên ba cái xương sườn. Vì vết khoét khá lớn, nên không thể khâu vá bằng chỉ, mà được nhét đầy băng vải tẩm trụ sinh, rồi đắp lại bằng một tấm băng lớn dày hai lớp chứa bông gòn ở giữa.

Tôi được điều trị ngoại trú, cứ hai ngày, phải trở lại bệnh viện một lần để thay băng. Mỗi lần thay băng là một lần đau muốn chết. Gần mười ngày sau tôi mới thấy các đốm thịt màu hồng bắt đầu nhô lên trên mặt vết mổ. Nhưng mỗi lần chùi rửa để thay băng, máu tươi vẫn tuôn ra ròng ròng.

Chiều 3 tháng Tư, từ bệnh viện về, vừa vào nhà, tôi đã thấy Trung sĩ Triêm đang ngồi chờ tôi nơi phòng khách. Ông Trung sĩ Ban 2 Liên Ðoàn mới từ mặt trận về ghé thăm tôi. Ông cho tôi hay tin, Ðại Ðội Trinh Sát Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân của Thiếu úy Ðinh Quang Biện đi đầu, đã nhảy nhằm một bãi mìn cũ, trên căn cứ hỏa lực Tango, chết và bị thương cả chục người. Thêm vào đấy, tình hình an ninh căn cứ rất bấp bênh vì ban ngày thì bị cối địch pháo kích, ban đêm lại lo Ðặc-Công Việt-Cộng tấn công. Trung tá Bùi Văn Sâm, Liên Ðoàn Trưởng đang bối rối lắm.

dak-seang2

Trung Úy Vương Mộng Long

Ông Triêm móc túi, đưa cho tôi mảnh giấy có đôi giòng viết vội của ông Liên đoàn trưởng:

“Ông Long nếu khỏe rồi, thì lên gấp, giúp tôi một tay.”

Cuối thư là chữ ký dài ngoằng gồm đủ tên, họ, và chữ lót của người viết: “buivansam”

Tin tức không vui từ mặt trận do Trung sĩ Triêm mang về, cùng với lời nhắn khẩn thiết của ông Trung tá liên đoàn trưởng đã khiến tôi cầm lòng không được.

Sáng 5 tháng Tư năm 1970 tôi leo lên trực thăng, trong ba lô có mười ngày trụ sinh.

Vừa bay qua Tân-Cảnh vài cây số, tôi đã nhìn thấy một thác nước sáng như bạc, thẳng như sợi chỉ, đổ xuống từ đỉnh Ngok-Kean cao hơn nghìn thước.

Dưới chân núi là giòng sông xanh biếc, uốn khúc ngoằn ngoèo giữa rừng già Trường-Sơn trùng trùng, điệp điệp. Sông Pơ-Kô bắt nguồn từ vùng chân núi Ngok-Linh, chảy ngang Dak-Rôta, qua Dak-Pek, xuống Dak-Séang, tới Phi Trường Phượng-Hoàng (Dak-To), rồi xuôi về Nam.

Tiền đồn Dak-Séang nằm bên bờ Tây của con sông này. Căn Cứ Hỏa Lực Tango (T) lại nằm bên bờ Ðông, xa hơn sáu cây số về hướng Ðông Nam.

Trong màn khói sóng Pơ-Kô, trên Quốc-Lộ 14, Tango ẩn hiện mơ màng nơi bờ Nam của một cây cầu sắt đã gãy từ thời Pháp thuộc.

Càng trực thăng vừa chạm đất, đạn cối 82 ly của Việt-Cộng đã bay tới ào ào. Tôi vội nhảy ra khỏi máy bay, ôm đầu nhào về hướng bờ sông. Trên căn cứ, sáu khẩu 105 ly đua nhau bắn trả vào những điểm nghi ngờ hướng Ðông.

Pháo kích vừa ngưng, Trung tá Sâm cồng kềnh trong áo giáp và nón sắt, đã ra tận bờ sông dắt tôi vào trung tâm hành quân liên đoàn.

Ông đẩy tôi tới trước mặt một vị Thiếu tá cũng dềnh dàng nón sắt, áo giáp, súng đạn, bản đồ, như đang chuẩn bị đi bay,

– Giới thiệu với ông, đây là Thiếu tá Tòng, mới thay Trung tá Bé.

Tôi đứng nghiêm chào ông tân liên đoàn phó,

– Chào Thiếu Tá, tôi là Trung úy Vương Mộng Long, Trưởng Ban 2.

– Mình là anh em mà, chú Long há! Nghe nói chú đang nằm nhà thương?

– Vâng, tôi vừa mổ xong, vết thương chưa lành thì nhận được lệnh gọi lên đây.

Thiếu tá Chung Thanh Tòng Khóa 5 Thủ-Ðức, là người Nam. Ông ăn nói rất nhỏ nhẹ và lịch sự. Vừa trao đổi vài lời, tôi đã có thiện cảm với ông.

Xem thêm:   Bên hồ Thác Bà

Trung tâm hành quân liên đoàn ồn ào như cái chợ. Hầu như ai cũng bận rộn, tất bật. Loa khuếch âm của các máy truyền tin không ngớt tiếng đàm thoại của các hiệu đài. Ông Trung tá Cố Vấn Trưởng chỉ kịp bắt tay tôi một cái, rồi hối hả chạy theo Thiếu tá Tòng ra trực thăng để bay yểm trợ Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân đang chạm địch.

Trung tá Sâm cho tôi biết, một sư đoàn Cộng-Sản đã bao vây căn cứ Dak-Séang gần nửa tháng nay rồi. Vùng hướng Bắc của chúng tôi, hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh ngày nào cũng đánh nhau ác liệt với một trung đoàn Cộng-Sản, nhưng vẫn chưa bắt tay được lực lượng Dân-Sự Chiến-Ðấu trú phòng trong trại Dak-Séang. Hai tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân tăng viện cũng gặp phản ứng mãnh liệt của địch bên hướng Tây Pơ-Kô. Tin tức do tài liệu nhặt trên tử thi của địch cho thấy Trung Ðoàn 66 Cộng-Sản trụ vùng hướng Nam Dak-Séang, còn Trung Ðoàn 28 Cộng-Sản án ngữ hướng Bắc tiền đồn này. Ban ngày Gunships và A.1 (Skyraider) Hoa-Kỳ vần vũ, ban đêm Spectre (A.C 130) và Shadow (A.C 119) thay nhau bao vùng.

Ông Trung tá Liên đoàn trưởng xác nhận, nhiệm vụ của tôi kỳ này không nhằm vào địch tình, mà nặng về công tác chống Ðặc-Công và chống pháo kích. Tôi sẽ điều hành công tác phòng thủ để ông Thiếu tá Lê Phú Ðào, Sĩ Quan Phụ Tá Hành Quân có thể rảnh tay phối hợp với cố vấn Hoa-Kỳ lo phần không hỏa yểm. Ðại úy Nguyễn Ngọc Di, Trưởng Ban 3 Liên Ðoàn có vẻ đuối sức lắm rồi. Mới cách nhau chưa tới hai tuần lễ mà tôi thấy tóc anh Di đã bạc đi nhiều lắm.

dak-seang1

Vị trí Dak-Seang

Rời trung tâm hành quân, tôi đi tìm ông y sĩ trưởng của liên đoàn xin tá túc, vì anh binh nhì nấu cơm và anh hạ sĩ mang đồ ngủ của tôi đã chết vì mìn ngay ngày đầu tiên nhảy xuống Tango.

Sau khi vứt cái ba lô vào lều của Y Sĩ Trung úy Hoàng Ðình Mùi, tôi theo chân Thiếu úy Biện đi kiểm soát hệ thống phòng thủ.

Căn cứ hỏa lực Tango nằm “ngay boong” trên một cái đồn cũ của Tây. Trừ ra phần bề mặt quốc lộ là không có dấu đào xới, còn hai bên đường, trong cỏ, hầu như cứ cách vài thước, lại có một cái lỗ do Công Binh để lại, sau khi đã đào lấy mìn đi. Trong lúc các hoạt động của căn cứ diễn tiến liên tục, thì hai chuyên viên tháo gỡ mìn bẫy vẫn thận trọng dùng lưỡi lê đi xăm xoi từng thước đất vùng nghi ngờ, tìm những quả M16 còn sót lại.

Vì biết chắc chắn rằng mình đang đi trên một bãi mìn, chỉ một giây lơ là, là banh xác ngay, tôi cảm thấy tóc gáy của mình dựng lên như lông nhím.

Tôi nghĩ rằng, nếu cứ để mọi người tự do đi tìm bụi bờ, phóng uế lung tung, họ có thể đạp phải mìn chết oan mạng, nên tôi đã chỉ định vị trí sáu cái cầu tiêu dã chiến trong vòng đai để Trung sĩ Triêm đôn đốc toán lao công đào binh hoàn tất trước khi trời tối. Sau đó, tôi cho đại đội trinh sát giăng thêm hai hàng kẽm gai Concertina trên tuyến Ðông để phòng chống Ðặc-Công.

Tính tới ngày 5 tháng Tư thì Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 2 và hai Tiểu Ðoàn 22 và 23 Biệt Ðộng Quân đã có mặt trong vùng Nam Dak-Séang hơn một tuần lễ rồi. Mọi nỗ lực tiếp viện cho Dak-Séang đều nằm bên hướng Tây của sông Pơ-Kô. Hướng Ðông hoàn toàn bỏ trống.

Hầu như ngày nào cũng vậy, cứ nghe tiếng trực thăng, “Bạch! Bạch!” ở đằng xa, hoặc khi pháo binh trên căn cứ vừa khai hỏa, thì trên mặt đất, ai nấy lại lo chuẩn bị núp đạn cối của Việt-Cộng. Vị trí cối địch không xa lắm, chỉ loanh quanh đâu đó vùng đồng tranh giữa Ngok-Tang và Pơ-Kô. Nhưng khổ nỗi, ta không có quân để truy đuổi địch.

Xem thêm:   Bên hồ Thác Bà

Ðại Ðội Trinh Sát Liên Ðoàn 2 mang danh là đơn vị cấp đại đội. Thực ra, nó không có bảng cấp số, quân số phải lấy từ ba tiểu đoàn cơ hữu của liên đoàn. Lúc cao nhất, đếm đầu từ quan tới lính, tính luôn thủ kho, tài xế, cũng chỉ được trên dưới sáu chục mạng. Sau khi cả chục người chết và bị thương vì mìn, đơn vị này còn lại hơn bốn chục người thôi. Hiện nay, nó chỉ đủ sức bảo vệ Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn. Pháo binh phải tự túc việc canh gác phần đất của họ. Thành ra, lúc các khẩu đội bận tác xạ thì phòng tuyến của pháo binh hầu như bị bỏ ngỏ.

Chính vì sơ hở này mà đêm 1 tháng Tư, một mũi xung kích của Tiểu Ðoàn 37 Ðặc-Công Việt-Cộng đã có cơ hội lọt vào đánh gãy càng hai khẩu 105 ly của ta, rồi ném ba, bốn bánh bộc phá trên nóc lều của trung tâm hành quân liên đoàn. Cũng may, không có ai bỏ mạng.

Trước tình trạng này, tôi quyết định dồn tuyến phòng thủ thành từng ụ ba người, mỗi tổ cách nhau chừng hơn mười thước, ban đêm sẽ gác đôi, một ngủ, hai thức. Khoảng giữa hai ụ phòng thủ được gài bẫy sáng để báo động. Bằng cách này, pháo binh sẽ được Biệt Ðộng Quân bảo vệ vòng ngoài, khi hữu sự, họ có thể yên tâm làm phận sự của mình mà không lo bị địch tấn công.

Vì tôi, nên ông bạn bác sĩ của tôi đã ra lệnh cho Ban Quân Y dựng thêm một cái nhà bạt trên bãi sậy nằm giữa căn hầm chứa thương binh và căn hầm của Ban 2 để tôi và Bác sĩ  Mùi trú ngụ.

Ðêm ấy pháo binh bắn liên tục để yểm trợ cho một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh bị địch ồ ạt tấn công nhiều đợt, trong khu vực hai cây số Nam Dak-Séang. Tới khuya, chúng tôi mới chợp mắt được. Mờ sáng ngày 6 tháng Tư, tôi bị Mùi gọi giựt dậy,

– Dậy mau! Nhưng nằm im đó! Coi đây!

Ông Trung úy bác sĩ run run chỉ cho tôi vật gì đó lòi lên ngay dưới chiếu, nơi ông ta nằm. Thì ra đó là ba cái râu mìn M16! Ba cọng thép đã rỉ sét, bị ông bác sĩ nằm đè lên trên, nên cụp xuống mặt chiếu. Thoạt nhìn, cứ tưởng đó là ba cọng cỏ lác chui qua khe chiếu. Tới lúc coi lại thì hú hồn!

Hai đứa rón rén từng bước leo lên mặt lộ, gọi ông Trung sĩ Công-Binh nhờ gỡ giùm quả M16 đã bị cụp râu. Ai nghe chuyện này cũng cho là hai đứa tôi có thần hộ mạng, nếu không thì đã bị phanh thây đêm qua. Có thể quới nhơn đã phù hộ cho hai đứa tôi cũng nên? Ai đời, đi hành quân mà mang theo chiếu? Nếu anh chàng Hoàng Ðình Mùi này mà trải chỗ nằm bằng poncho, râu mìn sẽ không chọc thủng được poncho, trong khi chúng tôi cứ giẫm đi, giẫm lại trên râu mìn, thì có khi, Mùi và tôi đã nằm trong poncho bay về Pleiku rồi cũng nên?

dak-seang

Mìn M16 (phải)

Buổi trưa có Chinook tiếp tế đạn pháo binh cho Tango. Chuyến đầu trót lọt. Tới chuyến thứ nhì thì bãi đáp bị địch pháo kích tơi bời, máy bay đành thả bành đạn giữa sông Pơ-Kô rồi vội vàng trở đầu bay về Nam. Lúc đó tôi đang đứng quan sát trên vài của cây cầu đã gãy.  Qua ống nhòm, tôi thấy rõ hai cụm khói trắng bốc lên từ hai vị trí cối 82 ly của Việt-Cộng đặt dưới thung lũng, cách Tango chừng hai cây số. Tôi chạy về hầm Ban 2, lệnh cho Thiếu úy Nhờ và toán Viễn-Thám sáu người của ông ta chuẩn bị năm ngày lương khô.

Chiều hôm đó ông Nhờ dẫn quân tới vị trí mai phục trên khúc đường mòn cách Tango ba cây số về hướng Ðông. Trong thời gian này, tôi bắt hai nhân viên Ban 2 và ba nhân viên Ban 4 cùng Trung sĩ Nguyễn Lác của toán tiếp tế trực thăng ra canh gác đêm trên vị trí mà toán Viễn-Thám của Thiếu úy Nhờ đã bỏ trống.

Xem thêm:   Bên hồ Thác Bà

Không biết toán của Thiếu úy Nhờ có để lộ hình tích gì khiến địch nghi ngờ không, mà tuyệt nhiên mấy ngày sau, không còn trái đạn cối nào rơi xuống Tango nữa.

Hôm đó mặt trận Dak-Séang bên hướng Tây sông Pơ-Kô bỗng trở nên ác liệt hơn. Một máy bay vận tải  C7 Caribou  của Mỹ  đang thả dù tiếp tế cho lực lượng trú phòng thì bị phòng không của địch đặt trong các hốc núi bắn rơi. Từ hôm sau, không quân Ðồng Minh phải áp dụng chiến thuật thả dù ban đêm.

Ngày 7 tháng Tư, máy bay quan sát L.19 báo cho Thiếu tá Lê Phú Ðào biết rằng, có nhiều toán Việt-Cộng ngụy trang bằng vải dù di chuyển trong khu vực đồng cỏ tranh hướng Ðông Bắc Ngok-Remang. Tin này được chuyển ngay cho Ðại úy Nguyễn Văn Thu, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân để đề phòng.

Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân dàn quân theo thế chân kiềng, chiếm lĩnh ba ngọn đồi cao trên triền Ðông Bắc của rặng Ngok-Remang.

Ngọn đồi thấp hướng Bắc do Ðại Ðội 4/23 của Trung úy Trần Mừng (Khóa 18 Thủ-Ðức) trấn giữ.

Ngọn đồi hướng Nam do Ðại Ðội 3/23 của Trung úy Lê Văn Hùng (Khóa 20 Thủ-Ðức) phụ trách.

Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 23 nằm chung với Ðại Ðội 1/23 của Ðại úy Nguyễn Công Bao và Ðại Ðội 2/23 của Trung úy Nguyễn Văn Hùng.

Cả hai anh Bao và Hùng đều là bạn cùng Khóa 20 Võ-Bị của tôi. Từ trong trường, bạn bè đã gán cho Nguyễn Văn Hùng cái biệt danh “Hùng Cá Sấu” chỉ vì anh ta có cái cằm nhọn nhô ra như cái hàm cá sấu.

Trong Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân có hai trung úy mang tên Hùng, là Nguyễn Văn Hùng và  Lê Văn Hùng, nên anh em quen miệng gọi Nguyễn Văn Hùng là “Hùng Cá Sấu” còn Lê Văn Hùng là “Lê Hùng” để tránh lẫn lộn.

Qua tần số riêng, tôi đã nói chuyện với Ðại úy Nguyễn Văn Thu, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân khá lâu. Anh Thu là dân Long-An, xuất thân Khóa 19 Võ-Bị, ra trường trước tôi một năm. Anh Thu rất mê thi hào Lý Thái Bạch đời Ðường, vì thế, chúng tôi gọi anh với cái tên “Thái Bạch” chẳng phải vì anh làm thơ hay, mà vì anh là tay uống rượu rất cừ.

Anh Thu than phiền rằng sở trường của Biệt Ðộng Quân là chiến đấu lưu động, nay bị chỉ định nằm yên một chỗ như thế này thì quả là điều rất bất lợi. Anh lo sợ có thể bị địch tập trung tấn công đột ngột bất cứ lúc nào. Hôm đó tôi đã cho các anh Thu, Bao và Hùng Cá Sấu biết tần số Viễn-Thám của tôi, để khi bất trắc, họ có thể gọi tôi trên làn sóng trực 24/24 này mà không qua hệ thống liên đoàn.

Sáng 8 tháng Tư một toán tuần tiễu Biệt Ðộng Quân báo cáo rằng, địch đang rầm rộ chuyển quân bao quanh ngọn đồi hướng Tây Nam do Trung úy Lê Hùng trấn giữ. Lê Hùng là tay kinh nghiệm dạn dày, đã lăn lộn trên chiến trường Tây-Nguyên gần năm năm.

Sau khi đích thân quan sát tình hình, vị đại đội trưởng này đã hạ lệnh cho đơn vị để nguyên lều võng đánh lừa địch, rồi gài Claymore, lựu đạn, trên vị trí, sau đó âm thầm rút xuống triền núi hướng Ðông, cách chỗ đóng quân cũ khoảng ba, bốn trăm mét, đào hầm hố nằm chờ.

Quả nhiên chỉ một giờ sau  mìn bẫy nổ ầm ầm, xen lẫn tiếng quân reo, “Xung phong!”

Pháo binh đã có sẵn yếu tố, nên hàng chục tràng đạn hỗn tạp đã tưới xuống, bao trùm ngọn đồi kia.

Tuy vậy, hai giờ sau địch đã kịp thời chuyển tiếp một lực lượng đông đảo khác đánh vu hồi trên điểm đóng quân mới của 3/23. Báo cáo đầu tiên là Chuẩn úy Trung đội trưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm bị bắn vỡ bọng đái.

(còn tiếp)