Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ tục danh Phạm Văn Thương sinh ở Lào, quê tại Quảng Bình, Việt Nam, là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả tài năng.
Tuệ Sỹ từng là Giáo sư thực thụ Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1970 và là Chủ bút của tạp chí Tư Tưởng do Viện Đại học Vạn Hạnh phát hành. Ông cũng làm thơ, viết một số truyện ngắn đăng trên tạp chí Khởi hành (1969-1972), Thời tập (1973-1975). Ngoài ra ông cũng hiểu biết rất nhiều trong lĩnh vực triết học Tây phương.
Đầu năm 1978 ông bị đưa đi tù “học tập cải tạo” 3 năm, đến năm 1980 thì được trả tự do.
Ngày 1 tháng 4 năm 1984 ông bị bắt cùng với thầy Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát). Tháng 9 năm 1988 ông và Lê Mạnh Thát bị tuyên án tử hình vì tội “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân”. Tháng 11 năm 1988 sau một cuộc vận động giảm án, bản án được giảm xuống còn tù chung thân. Ngày 1 tháng 9 năm 1998 ông được trả tự do từ trại Ba Sao-Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Một năm sau, do vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Hòa thượng Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi. Sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Độ viên tịch, Tuệ Sỹ được cử làm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo.
Tuệ Sỹ không phải là người tìm danh vọng, nhất là bằng thi ca. Ông không tìm độc giả, tìm tri kỷ, tri âm. Ông thừa nội lực để sống an nhiên trong tịch lặng giữa cõi ta bà. Nhưng thơ ông xuất hiện như vầng trăng ra khỏi đám mây, như mùi hương bông sứ chợt thoảng vào vườn khuya, là một niềm vui chung, và cho người lữ khách ngồi lại bên đường, buổi chiều, “cười với nắng một ngày sao chóng thế… đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan”, câu thơ ngày xưa của ông mà Bùi Giáng hết lời ca ngợi. Sao Khuê
Cánh chim trời
Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc
Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao.
Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc
Một lần đi là vĩnh viễn con tàu
Ði để nhớ những chiều pha tóc trắng
Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu.
dạ khúc
Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ bi thương
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
Ai tóc trắng đìu hiu trên đỉnh tuyết
Bước chập chờn heo hút giữa màn sương
Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường?
khung trời cũ
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn
mộng trường sinh
Ðá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
Ngàn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
Ðan sa rã mộng phi thường
Ðào tiên trụi lá bên đường tử sinh
Ðồng hoang mục tử chung tình
Ðăm chiêu dư ảnh nóc đình hạc khô.
tự tình
Còn nghe được tiếng ve sầu
Còn yêu đốm lửa đêm sâu bập bùng
Quê người trên đỉnh Trường Sơn
Cho ta gửi một nỗi hờn thiên thu.
tôi vẫn đợi
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại với bàn tay bạo Chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai, như bóng chớp, mây chiều.
một bóng trăng gầy
Vai nghiêng tủi nhục hờn lay mộng tàn.
Rừng sâu mấy nhịp Trường Sơn
Biển Ðông mấy độ triều dâng ráng hồng.
Khóc tràn cuộc lữ long đong
Người đi còn một tấm lòng đơn sơ?
Máu người pha đỏ sắc cờ
Phương trời xẻ nửa giấc mơ dị thường.
Quân hành đạp nát tà dương
Khúc ca du tử bẽ bàng trên môi.
Tình chung không trả thù người
Khuất thân cho trọn một đời luân lưu.