Tạ Ký sinh năm 1928 tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Phong cảnh vùng này hữu tình, đồi núi quê anh là nơi Bùi Giáng đã đi chăn dê.
Làm thơ từ thuở còn học tiểu học cho mãi đến những năm cuối của đời mình, cuộc đời của Tạ Ký gắn liền với thơ và việc dạy học. Năm 1970 ông xuất bản tập thơ Sầu Ở Lại, đã đoạt giải thơ của VNCH sau đó. Tập thơ thứ hai của ông, Cô Đơn Còn Mãi, xuất bản gần ngày sụp đổ miền Nam nên được ít người biết đến. Từ 1975, ông đi tù cải tạo trong hai năm, đã làm nhiều thơ trong tù, rất tiếc hiện chỉ còn một số ít trong trí nhớ của các bạn đồng tù.
Cuối năm 1978 Tạ Ký từ Sài Gòn đi về sống ở An Giang, và đã qua đời trong cô độc tại đây vào tháng Ba năm 1979. Hai mươi hai năm sau, vào ngày 5 tháng Tư năm 2001, gia đình và bạn bè đã dời mộ ông từ An Giang về cải táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, bên cạnh mộ phần của Bùi Giáng. Thơ Tạ Ký bình dị, dễ hiểu, mang không khí cổ điển, đôi chỗ có hơi khinh bạc, một chút ngông. Sau đây là một vài bài tiêu biểu. NGUYỄN & BẠN HỮU
viết trang tình sử
Ai về xứ mộng, xứ mơ
Cho tôi gởi ít vần thơ tặng nàng:
Sông Hương lắm chuyến đò ngang
Chờ anh em nhé, đừng sang một mình
Chờ anh kể chuyện tâm tình
Từ anh theo đuổi những hình phù vân…
Thôi em, đã lỡ một lần
Mấy năm đau khổ đã dần vơi vơi
Nghĩ thương kẻ ấy sai lời
Nghĩ thương em những mong đời anh nên
Xa xôi nhiều lúc anh quên
Rằng em gái vẫn chong đèn đọc thơ
Vẫn cầm duyên để đợi chờ
Vẫn trông phượng đỏ hai bờ Hương Giang
Chiều lên huyền hoặc bướm vàng
Em như công chúa mơ chàng Thám hoa
Không, em tôi còn mẹ già
Còn đàn em dại, cửa nhà cậy trông
Có ai nhắc chuyện lấy chồng
Thì em đôi má ửng hồng thêm duyên
Giận mình chưa đạt lời nguyền
Anh không mong được chung thuyền ấy đâu
Khi mô người bỏ cau trầu
Cho anh biết để ủ sầu lên men
Ðể anh vặn nhỏ ngọn đèn
Viết trang tình sử cùng tên một người
trung phước ơi!
Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc
Tình cheo leo cao vút một con đèo
Núi Chèo Bẻo vươn mình trong khói đục
Hòn Cà Tang thương nhớ vọng tình theo
Ðây đồng Chợ không còn vang nhịp bước
Và đồng Quan, đồng Vú chắc tiêu điều!
Lúa vàng ơi, lúa vàng bao năm trước
Rộc cây Bòng bờ trổ mạch cô liêu
Cau xanh lắm, cau với người thân thiết
Bắp non non, người đợi bắp vàng bao
Lụa óng ánh tay ngà thoăn thoắt dệt…
Ðời không dài hơn một giấc chiêm bao!
Làng chết lặng, lều xác xơ dăm túp
Người tha hương còn mất chẳng tin về
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê!
Chín năm chẵn máu chưa hề ngớt chảy
Chim không ca, bắp cũng chẳng vàng bao
Khung cửi lạnh, tay ngà đang ấp mộ
Hẹn tương phùng trong một giấc chiêm bao
Mùa hy vọng thắp đôi hàng nến đỏ
Chép bài thơ thương nhớ giữa kinh thành
Ôi yếu đuối một linh hồn nho nhỏ
Chỉ mong ngày nắng ấm ngọn cau xanh
buồn như
Buồn như ly rượu cạn
Không còn rượu cho say
Buồn như ly rượu đầy
Không còn một người bạn
Buồn như đêm khuya vắng
Qua cửa sổ trông trăng
Buồn như em nói rằng:
Nhớ anh từng đêm trắng
Buồn như yêu không được
Dù người yêu có thừa
Buồn như mối tình xưa
Chỉ còn dòng lưu bút
Buồn như buồn như thế
Buồn như một kiếp người
Ðây cõi lòng quạnh quẽ
Buồn như đoá hoa rơi
mưa đầu thu
Hoa cúc bao giờ mới nở đây?
Trời run nhè nhẹ dáng thu gầy,
Tương tư bờ cúc vàng lưng giậu,
Sông rộng thêu hình đôi bóng mây.
Cầu vắng bâng khuâng bước học trò,
Dăm tà áo trắng dệt thêm mơ.
Chiều nay nắng chở buồn không hết,
Thu chớm thu rồi, thơ chớm thơ.
Duyên ngập ngừng duyên buổi hẹn đầu,
Không cần lành lạnh mới thương nhau.
Cớ sao sương khói đìu hiu quá,
Thu đến ai người khóc chuyện Ngâu?
Chim nhỏ không buồn nhảy giậu thưa,
Thời gian chừng chuyển điệu sang mùa:
Mây chao, nước lạnh, thuyền im bến,
Rời rạc đầu thu đôi giọt mưa.
Lệ ở trên trời, mưa thế gian,
Tình xưa còn lại nửa cung đàn.
Mái tranh thánh thót niềm tương biệt,
Thư viết chưa hề gửi cố nhân.