Khoa Hữu, tên thật Ngô Đình Khoa sinh năm 1938 tại Bắc phần. Vào Nam tháng 3 năm 1953. Tốt nghiệp Bách Khoa hệ Cao đẳng 4 năm. Đi dạy tư 4 năm. Đi lính tác chiến 10 năm, bị thương 2 lần. Đã đăng thơ và truyện ngắn trên vài tạp chí văn học tại Sài Gòn. Mất năm 2012. Trong thời gian tại thế, ông vẫn âm thầm sáng tác, không hợp tác với bất cứ tạp chí, tổ chức văn nghệ nào của chế độ hiện hành.
Đã xuất bản sau năm 1975 ở hải ngoại: Tập thơ Lục Bát, Tập Thơ Khoa Hữu, Nửa Khuôn Mặt thơ lục bát, Tập thơ Lửa. Thư Quán Bản Thảo của Trần Hoài Thư đã ra một số đặc biệt về Khoa Hữu (số 52 – 2012) ‘Sự Im Lặng Của Cát Bụi’ để tưởng niệm nhà thơ. Theo Trần Doãn Nho, thơ Khoa Hữu nói chung, mang một phong cách và tâm cảnh khá đặc thù, tạo nên một chất thơ riêng biệt, rất khó nhầm lẫn… Trong một số bài, chúng mang âm hưởng của “Mùa Hạn,” “Tàu Đêm” hay “Ta Về” của Tô Thùy Yên. Nhưng khác với thơ Tô Thùy Yên, ngoài tính cách bi phẫn, thơ Khoa Hữu phảng phất nét u hoài, man mác rất cổ điển, cứ như đọc một bài cổ thi hay một bài văn thời xa xưa nào mà nhà văn Nguyễn Mộng Giác, trong lời tựa cho tập thơ Khoa Hữu, gọi là bàng bạc “không khí thơ biên tái.” Sau đây là vài bài tiêu biểu. SAO KHUÊ
Ải bắc
Biên cương rừng giới bạt ngàn phủ
trùng trùng núi đứng giáp đầu mây
đường lên ải bắc dọc ngang lộ
muôn dấu chân qua bạt lối này.
Ta nghe tiếng vọng triền miên lũng
đỉnh đá khua hay vực gió dồn
bụi cát mù mù vó ngựa động
lòng ta, mốc cắm vết suy vong.
Ta lên ải bắc hỏi tin nhạn
hỏi thời gian tìm nhạn môn mây
thủa loạn ngôn trời đất cũng loạn
đất cắt, trời chia, loạn cỏ cây.
Ngọn suối nước khe dòng lịch sử
nghe đâu đây gọi tiếng mơ hồ
cung kiếm mấy đời đi giữ đất
chiến bào da ngựa bọc biên khu.
Nhúng bàn tay xuống trường giang lớn
năm ngón như chạm mũi cọc chôn
nhớ theo sóng lớp Bạch Ðằng lộng
bóng chinh phu đoạt giáo trên thuyền.
Ta đi tìm lại đoạn đường tận
xưa, Nguyễn Trãi ngồi ngun ngút thù
người đi chân xích vai gông nặng
kẻ quay về mài bút bình Ngô.
Có con nhạn trắng tung trời hót
bay liệng giữa vòng nhớ ải quan
có gã dân dã già cô độc
ngoái lại trăm năm đã mỏi mòn
cái chết của
một tượng đá
Si Dieu existe, que souhaiteriez-vous
qu’il vous dise après votre mort.
Tạc mãi đau thương người thành đá
ngồi canh đồng đội đã bao năm
cây súng gác ngang đời không ngủ
chiếc ba lô vai nặng vết hằn.
Người ngồi đó, mở trang bi sử
chiến bào như thấm máu chưa khô
ta ngồi đó xanh hàng bia mộ
áo nhung rêu cũng bạc dấu thù.
Ta muốn hỏi người từ đâu đến
bèo mây hạnh ngộ, có nhớ ta
ta về từ những vùng, khu chiến
bọc kinh hoàng xương mất, để da.
Ta muốn hỏi người, câu sinh tử
mắt trẻ thơ, môi cánh hoa đào
trán cô phụ băng lời tình sử
tóc mẹ già phủ mặt chiêm bao.
Cái chết – những con thiên nga trắng
ngàn năm tuyệt tích trời đông phương
anh hùng mạt lộ, chiến trường tận
đâu trái tim của một gã cuồng?
Ðêm thập tự hàng hàng, vấn tội
đồi bạch dương chụm những đầu ma
oán sâu sương khói cao mù núi
sát thời gian, người, đá hay ta.
Mười năm, lại mười năm sống sót
chuyện dữ tan tành, đồng đội đâu
đất nghĩa trang nhớ hoang dại mọc
quê nhà đây, cỏ mới, ngang đầu.
Saigon 1990.
đêm trước
ngày triệu tập
Ðêm, nghe hơi thở cầm canh
sớm mai còn ngấn lệ quanh mắt người
ơn em hàm chút ơn đời
buồn chia chưa đủ môi cười tiễn nhau.
Cầm bằng bước lỡ mai sau
tóc xưa đã cắt ngang đầu làm tin
chẳng chân cứng cũng đá mềm
chẳng quên đời thảng thốt quên từng ngày.
– Cầm bằng ta hạt bụi bay.
tình khúc cho vợ
Ví người thắt cổ ta, đây
dây oan xin hãy nhẹ tay-tơ hồng
treo trên ngày tháng hư không
đêm canh ác quỷ ngày trông gian tà.
Ví người chết thế giùm ta
tiễn người ta nguyện đưa qua chín tầng
cực hình chia ở thế gian
vai gông chân xích ta mang giùm người.
đường đi ta vẫn ngậm cười
môi hôn đã chạm nỗi đời biệt ly.
trở lại chiến trường Xuân Lộc
Về đây tìm lại ta ư
ngày thư ngải độc đêm như yểm bùa
tìm gì trong sỏi đá, thưa
tìm gì dưới gạch ngói xưa chôn vùi
rừng như vuốt mặt làm vui
núi như cúi xuống nửa đời vì ta
đất còn đỏ mãi can qua
trời còn băng những mảnh da đã vàng
gió gầm lên tiếng xé tan
mây lồng lên bóng dọc ngang một thời
nhớ ơi, vai súng hoa cài
nắng nung mắt lửa mưa mài biên cương.