Trên trang này đã hơn một lần chúng ta biết về Khoa Hữu và thơ ông.
Khoa Hữu ngày xưa đi dạy rồi đi lính VNCH. Ông từng in thơ trên một số tạp chí văn học. Sau 75, Khoa Hữu im lặng viết, không xuất hiện. Từ 1987, ông gửi thơ đăng lại trên các tạp chí văn chương Hải ngoại: Văn học, Thế kỷ 21, Hợp Lưu (Mỹ)…
Ông mất năm 2012 tại Sài Gòn, để lại nhiều sáng tác chưa kịp xuất bản.
Thơ Khoa Hữu nói chung, mang phong cách và tâm cảnh khá đặc thù, tạo nên một chất thơ riêng biệt, nhất là trong thể ngũ ngôn và thất ngôn mang không khí bi phẫn và nét u hoài, man mác rất cổ điển, bàng bạc “không khí thơ biên tái” như Nguyễn Mộng Giác từng ghi nhận. SAO KHUÊ
Cái chết của một tượng đá
Si Dieu existe, que souhaiteriez vous
qu’il vous dise après votre mort.
Tạc mãi đau thương người thành đá
ngồi canh đồng đội đã bao năm
cây súng gác ngang đời không ngủ
chiếc ba lô vai nặng vết hằn.
Người ngồi đó, mở trang bi sử
chiến bào như thấm máu chưa khô
ta ngồi đó xanh hàng bia mộ
áo nhung rêu cũng bạc dấu thù.
Ta muốn hỏi người từ đâu đến
bèo mây hạnh ngộ, có nhớ ta
ta về từ những vùng, khu chiến
bọc kinh hoàng xương mất, để da.
Ta muốn hỏi người, câu sinh tử
mắt trẻ thơ, môi cánh hoa đào
trán cô phụ băng lời tình sử
tóc mẹ già phủ mặt chiêm bao.
Cái chết – những con thiên nga trắng
ngàn năm tuyệt tích trời đông phương
anh hùng mạt lộ, chiến trường tận
đâu trái tim của một gã cuồng?
Ðêm thập tự hàng hàng, vấn tội
đồi bạch dương chụm những đầu ma
oán sâu sương khói cao mù núi
sát thời gian, người, đá hay ta.
Mười năm, lại mười năm sống sót
chuyện dữ tan tành, đồng đội đâu
đất nghĩa trang nhớ hoang dại mọc
quê nhà đây, cỏ mới, ngang đầu.
Saigon 1990.
Ải bắc
Biên cương rừng giới bạt ngàn phủ
trùng trùng núi đứng giáp đầu mây
đường lên ải bắc dọc ngang lộ
muôn dấu chân qua bạt lối này.
Ta nghe tiếng vọng triền miên lũng
đỉnh đá khua hay vực gió dồn
bụi cát mù mù vó ngựa động
lòng ta, mốc cắm vết suy vong.
Ta lên ải bắc hỏi tin nhạn
hỏi thời gian tìm nhạn môn mây
thủa loạn ngôn trời đất cũng loạn
đất cắt, trời chia, loạn cỏ cây.
Ngọn suối nước khe dòng lịch sử
nghe đâu đây gọi tiếng mơ hồ
cung kiếm mấy đời đi giữ đất
chiến bào da ngựa bọc biên khu.
Nhúng bàn tay xuống trường giang lớn
năm ngón như chạm mũi cọc chôn
nhớ theo sóng lớp Bạch Ðằng lộng
bóng chinh phu đoạt giáo trên thuyền.
Ta đi tìm lại đoạn đường tận
xưa, Nguyễn Trãi ngồi ngun ngút thù
người đi chân xích vai gông nặng
kẻ quay về mài bút bình ngô.
Có con nhạn trắng tung trời hót
bay liệng giữa vòng nhớ ải quan
có gã dân dã già cô độc
ngoái lại trăm năm đã mỏi mòn
điệp khúc
Ta như mùa đông
đóng băng ngày tháng
ta như mùa đông
đến từ vô tận
Một ngọn cỏ gầy
nhấc lên từ đất
ta như cỏ này
lạnh cóng trong đất
Thấy mặt trời gần
trong mắt ta mở
thấy tay thời gian
vuốt qua ghê sợ
Bình minh như lửa
hoàng hôn như than
ta thấy cùng cháy
ta tàn cùng than
Ngẩng đầu ngang núi
sững một niềm đau
rừng rung thân mỏi
hờn suốt biển sâu
Ði dọc đời sống
tựa như đi dây
một hồn vực thẳm
hai bờ căng thây
Ta làm thi sĩ
gõ cửa đa đoan
tìm kẻ dưới mộ
thương người hồng nhan
Vắt kiệt sự sống
dốc cạn máu ta
thơ là máu nóng
thơ là thịt da
Lấp hoài chưa tận
vũng bể dâu này
đời mòn bấc lụn
mai về đâu đây
Vĩnh biệt mùa đông
buồn dâng tới đỉnh
ta chạm vô cùng
ngàn sau chưa tỉnh.