Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Tổng Thống VNCH 1972

Trương Duy Hy

NHẬN LỆNH LÊN ĐƯỜNG

 Đang chỉ huy một pháo đội ( – ), Pháo đội C thuộc Tiểu Đoàn 44 Pháo Binh, đồn trú tại Đồi 37, ngay sau Quận đường Đại Lộc. Pháo đội tôi có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho Liên Đoàn Biệt Động Quân do Đại Tá Hiệp, Liên Đoàn Trưởng chỉ huy, quần thảo với Cộng quân suốt dọc sông Thu Bồn, bên phần đất Duy Xuyên. Tôi được lệnh chuyển nhiệm vụ sang yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 51 Bộ Binh do Đại tá Thục làm Trung Đoàn Trưởng vào khoảng thượng tuần tháng 1-1971.

Rạng ngày 25-1-1971, Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn gởi công điện gọi tôi về dự buổi họp quan trọng.

10g30, bước vào phòng họp, tôi thấy hầu hết các Sĩ quan tham mưu, các vị Pháo Đội Trưởng chỉ huy, Pháo Đội Trưởng Tác Xạ A, B đã tề tựu đông đủ chung quanh chiếc bàn hình “Oval” phủ khăn đỏ.

Bắt đầu buổi họp, Thiếu tá Nguyễn-Văn-Tự Tiểu đoàn trưởng với vẻ mặt tươi tỉnh hơn mọi ngày, trịnh trọng tuyên bố : Tiểu Đoàn sắp tham dự một cuộc hành quân đại quy mô, điều động toàn bộ Tiểu Đoàn 44 Pháo Binh tham chiến. Mục tiêu cuộc hành quân là phá hủy hậu cần địch tại Hạ Lào…

Sau cuộc họp, trở về đồi 37, tôi cùng Trung Úy Lê-Văn-Lân Sĩ quan tác xạ pháo đội đặt kế hoạch di chuyển. Tôi không quên đặc ân cho một số quân nhân tốt trong Pháo đội được đi phép ít hôm về ăn Tết với gia đình. Số còn lại, tiếp tục vui Xuân trọn vẹn từ mồng 1 đến cuối ngày 2 Tân Hợi.

Chúng tôi đã ngã 1 bò và 2 heo nhân dịp Tất niên và mừng Xuân mới. Riêng đồng bào, các vị thân-hào nhân-sĩ, các viên chức xã Lộc Hưng, các sĩ quan Hoa-Kỳ mang quà cáp đến chúc “thọ” chúng tôi. Quý vị Hiệu Trưởng, Nam Nữ Giáo Sư, Nam Nữ Sinh trường Trung Học Đệ Nhất, Đệ Nhị cấp Đại Lộc đến tận pháo đội trao cho mỗi pháo thủ một chiếc khăn tay có thêu tên trường, tên lớp, thân tặng, để kỷ niệm những ngày pháo đội công tác tại địa phương này.Sáng mồng 3 Tết, nhằm ngày 29-1-1971, cả Pháo đội thức dậy thật sớm, dọn dẹp những gì còn sót, chất đầy trên 4 xe cargo 2,5 tấn, 4 xe 5 tấn, 2 xe dodge, 3 xe Jeep và 3 móc hậu 1 tấn, đầy nhóc đạn 155 ly.

11g30 chúng tôi di chuyển xuống hướng Phong Thử, rẻ về đồi 55 Đất Sơn đón Trung Đội 1 rồi cùng về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn.

Tại Tiểu đoàn, tất cả 6 đại bác 155 ly của Pháo Đội được xếp hàng sắp ngay trong sân cờ đối diện với văn phòng.

Hôm sau, đúng 17g00 chúng tôi tháp tùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đi đoạn hậu, nối tiếp Pháo Đội A di chuyển ra Đông Hà. Đoàn xe chúng tôi vượt qua đèo Hải Vân khoảng 21g00 đêm. Theo chúng tôi, có 1 Chi Đoàn xe bọc sắt giữ nhiệm vụ hộ tống.

Trên lộ trình, tất cả quân xa đều xử dụng đèn pha, vẽ thành những vệt sáng quét ngang dọc sườn núi, chọc thủng màn đêm, tạt ánh sáng xuống các vực thẳm sâu hun hút. Vài trục trặc nhỏ xảy ra do mấy chiếc cargo cũ kỹ khập khà khập khựng rên siết trườn mình trên đường nhựa, làm giảm tốc độ cho cả đoàn xe.

Sau khi đổ đèo cách tỉnh Hải Vân vài cây số, một cargo 5 tấn của Pháo Đội A làm lật khẩu đại bác 155 ly ngay giữa đường, vì qua khúc quẹo quá ngặt. Tấm lá chắn xẻ mặt đường một đoạn ngắn làm bong cả nhựa đá. Bắt buộc tôi phải dừng lại xin toán hộ tống đợi chúng tôi bẫy súng lên để cùng đi – song không được vị Toán Trưởng chấp thuận – tôi đành gọi vô tuyến báo cho Ban 3 Tiểu Đoàn, lúc bấy giờ cách tôi trên 4 cây số. Lật đật, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng quay xe lại giải quyết vấn đề hộ tống. Đồng thời, Thiếu Úy Bá Sĩ quan Quân Xa Tiểu Đoàn cùng với Ban Đệ II cấp cho wrecker tiến lên câu súng trả về vị thế cũ.

Xem thêm:   Đại Tá Hoàng Cơ Lân - Y sĩ nhảy dù đối đầu với Việt Cộng

Khoảng quá khuya, trời bắt đầu mưa lâm râm. Dưới ánh đèn pha, mặt đường trở nên láng bóng như có ai thoa mỡ. Các tài xế dốc hết tâm trí vào tay lái, cố trấn tỉnh cơn mê ngủ đang rình rập tấn công vào đôi mắt… Càng đi, chúng ta càng vào sâu trong khí hậu lành lạnh, khác hẳn với khí hậu tại Đà Nẳng. Đến 6g00 sáng 31-1-71, đoàn xe dừng lại cách thị trấn Đông Hà 2 cây số.

Tại đây, chúng tôi được tạm trú trên một quảng đồi rộng ở hướng Tây Tiểu Đoàn 48 Pháo Binh.

Trưa ngày 1-2-1971, toàn Tiểu Đoàn di chuyển từ Đông Hà đến Cam Lộ. Khi cách Cam Lộ 4 cây số, lại được lệnh tạm dừng quân ở bên trái đường, trên ngọn đồi thấp. Cùng đồn trú với chúng tôi có một đơn vị thiết giáp thuộc Thiết Đoàn 17. Trong suốt thời gian từ 1-2 đến 6-2-1971, sáng và chiều, Thiếu Tá Tự, Đại Úy Thông luân phiên đi họp để nhận lệnh mới. Nhờ những buổi họp này, chúng tôi được biết: Công binh làm đường, sửa cầu cống trên Quốc lộ 9 nối liền Đông Hà – Khe Sanh chưa xong, nên phải đồn quân mà đợi.

Lợi dụng thời gian nghỉ “xả hơi”, Pháo Đội kiểm kê vật dụng, nhận thêm băng cá nhân phát đầy đủ cho mỗi binh sĩ một cái. Đồng thời tôi cho lệnh Trung Sĩ I Bình mua sắm thêm chén kiểu, đũa, ly phát bổ sung cho tất cả binh sĩ mỗi người một bộ, thay thế những chén bể hoặc do anh em làm mất mát trong lúc di chuyển.

Hạ Sĩ quan Hỏa Thực vẫn hàng ngày đi chợ Đông Hà mua thức ăn cho Pháo Đội. Thỉnh thoảng chúng tôi trẩy về Quảng Trị ngồi cạnh cốc cà phê nóng hổi suy tư một chuyến đi với hy vọng chiến thắng rực rở.

Ngày 4-2-1971, tôi và Trung Úy Lân vào Huế mua thêm những vật dụng cần thiết mang theo.

Chiều 5-2-1971, Đại Úy Công và Đại Úy Thương tìm đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn gặp tôi. Đại Úy Công làm việc tại Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn Dù, còn Thương làm Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Mục đích cuộc gặp gỡ này không ngoài việc liên lạc với chúng tôi về nhiệm vụ tăng phái Tiểu Đoàn 44 Pháo Binh cho Sư Đoàn Dù, và Pháo Đội C tôi được tăng phái chính thức cho Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Đại Úy Thương có tầm vóc mảnh mai, thấp, ăn nói hoạt bát, hiền hậu, rất xứng đáng với cái tên của Đại Úy đã mang. Thương trẻ hơn tôi về tuổi tác và cũng trẻ hơn tôi về khóa học tại trường Võ Khoa Thủ Đức.

Thương trình bày tất cả những gì Pháo Đội tôi phải làm trong những ngày sắp tới, đồng thời Thương giải thích mọi thắc mắc về phương diện tiếp liệu, hành chánh mà Pháo Đội tăng phái thường vấp phải. Thương nói rành rẻ với giọng nhỏ nhẹ dễ mến.

Sau khi Thương ra về, tối đến, một cuộc họp cuối cùng tại BCH/TĐ với mục đích để Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng chỉ thị những điều cần thiết hầu các Pháo Đội căn cứ vào đó thi hành trong suốt cuộc hành quân. Cũng do cuộc họp này, tôi được biết Pháo Đội chúng tôi tăng phái cho Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù do Trung Tá Bùi-Văn-Châu làm Tiểu Đoàn Trưởng.

Sáng ngày 6-2-1971. Từ 1g00 sáng mọi người đều thức dậy, móc súng sắp thành hàng dài, nối đuôi Pháo Đội A…

6g30 đoàn xe bắt đầu lăn bánh.

Chúng tôi di chuyển rất chậm. Trời lại lất phất mưa, đường trơn như láng mỡ. Tài xế vất vả và khó nhọc lắm mới đưa được mấy khẩu đại bác 155 ly qua các dốc, các co nguy hiểm. Ngồi trên xe Jeep, tôi cứ phập phồng lo sợ lật xe, lật súng, rơi nhân viên xuống hố ! Có nhiều đoạn phải xử dụng cần phụ, cài số 1, đi như đưa đám tang, vậy mà xe vẫn chạy theo “ý” xe, chứ không chạy theo chiều lái của tài xế.

Xem thêm:   Đại Tá Hoàng Cơ Lân – Kỷ niệm về đời lính dù

16g30 chúng tôi đến Khe Sanh. Kẹt xe, Pháo Đội của chúng tôi phải đợi mất 1 giờ chờ Quân Cảnh Dù dẹp đường. Sau đó, chúng tôi rẽ vào vị trí trú đóng của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, còn Pháo Đội A, Pháo Đội B cùng BHC/TĐ tiếp tục di chuyển đến Lao Bảo cách Khe Sanh 15 cây số.

Bắt đầu từ đây, Pháo Đội C tôi hoàn toàn tùy thuộc vào sự điều động và xử dụng của Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù.

21g00 Trung Tá Châu mời tôi sang họp tại BCH/TĐ3 Dù. Cuộc họp do Đại Úy Thương thuyết trình.

Trên bản đồ hành quân đã được thiết kế bằng đủ màu sắc, ghi chú đầy đủ các vị trí quân bạn sẽ chiếm đóng, các trục tiến quân sẽ thực hiện kể từ ngày N+8, N+9, N+10…

Tôi rất hoan hỉ và vô cùng phấn khởi khi Đại Úy Thương trình bày về tầm quan trọng của các CĂN CỨ HỎA LỰC. Những nơi này chắc chắn sẽ được dành mọi phương tiện, mọi ưu tiên của không yểm cùng pháo yểm bảo vệ khi gặp nguy hiểm. Thương nhấn mạnh: “Đại Úy đi với chúng tôi – là lực lượng Dù, lực lượng thiện chiến, có quy cũ lắm. Đại Úy yên trí lớn! Tất cả đều có chúng tôi lo cho Đại Úy…”. Thương thao thao bất tuyệt dẫn chứng những sự kiện thật đã xảy ra tại mặt trận Kompong-Cham về phương diện tiếp vận và không yểm quy mô, tối đa, bất chấp mọi thời tiết dành cho đoàn quân viễn chinh của ta.

Cuối cùng, Thương kết luận: “Chúng tôi sẽ giúp đỡ Đại Úy và Pháo Đội của Đại Úy tất cả những gì giúp đỡ được…”.

Niềm tin và lòng phấn khởi ấy được tôi mang về công bố cho các sĩ quan thuộc quyền biết. Trên nét mặt, mọi người đều vui vẻ tin tưởng.

Tôi đưa lệnh hành quân cho Thiếu Úy Huỳnh Công Thiện kẹp vào bản đồ. Giao cho Trung Úy Lân thu xếp mọi vật dụng cần thiết để có thể tách đôi Pháo Đội khi tình hình chiến thuật đòi hỏi. Thiếu Úy Toại kiểm kê đạn dược, Thiếu Úy Ngân cụ bị đầy đủ vật liệu cho Đài Tác Xạ và Trung sĩ nhất (TSI) Bình Thường Vụ Pháo Đội lo liệu vấn đề ẩm thực.

Tại hậu cứ Khe Sanh, TSI Đa lo đạn dược, Trung sĩ (TS) Thế lo tiếp tế, hành chánh và thực phẩm tiếp tế. TS Ngô lo quân xa cùng một số các tài xế. TS Kế, Hạ sĩ (HS) Thiện, Lượt, Sở, Xuân, Cẩn, Ngọ, Bảy, Hứa, Mười, Đạt, Cho, Thục ở lại Khe Sanh giữ nhiệm vụ tu bổ quân xa, tạp dịch trong mọi công tác cần thiết để yểm trợ cho Pháo Đội.

Trong lúc chờ lệnh mới, tôi có dịp đi quan sát quanh vùng trong khoảng không quá vài cây số. TS Thế cho biết trước đây, chính những chỗ này đồng bào sinh sống khá đông, nguồn lợi chính của họ là cà phê, trà. Hồi còn Cậu Cẩn, Khe Sanh là yết hầu của những tay buôn lậu thuốc phiện và vàng từ Lào sang, nên lúc bấy giờ con đường nối dài từ Đông Hà đến Khe Sanh tấp nập người lên xuống. Một vài ngôi vườn hoang có tường, rào vững chắc, bên trong nhà được xây bằng gạch hoặc aglo bị sụp đổ vì bom đạn cày xới, rải rác trong vườn còn một vài xác xe hơi lủng nát của các tay tài phiệt Pháp, chứng tỏ Khe Sanh quả đã có một thời vàng son! Bây giờ, trước mắt tôi khắp đó đây dẫy đầy hố bom. Có nhiều hố nối tiếp, sát nhau, chứng tích của những trận oanh tạc khủng khiếp của Pháo đài bay B52.

Xem thêm:   Con gấu ngựa

Khoảng 16g00 chiều ngày 7-2-71, buổi họp kế tiếp được tổ chức tại BCH/TĐ3 Dù với sự tham dự của tất cả Pháo Đội Trưởng Dù và tôi.

Trong phần trình bày kế hoạch yểm trợ, Thương xác định Pháo Đội C/3 Dù do Trung Úy Trí làm Pháo Đội Trưởng. Nhiệm vụ chúng tôi yểm trợ trực tiếp cho Tiểu Đoàn 2 Dù của Trung Tá Thạch (Tiểu Đoàn này bảo vệ vị trí chúng tôi) và tăng cường hỏa lực cho Pháo Đội C/3 Dù.

Ở điểm này, Trung Tá Châu rất tế nhị. Ông ta tỏ vẻ khó xử trí, vì ngày mai đây, sau khi chiếm đóng tại cùng một vị trí, tôi có cấp bậc cao và thâm niên, trong lúc Trí đang là Trung Úy. Dĩ nhiên về phương diện chỉ huy ở đấy phải là tôi. Nhưng Pháo Đội tôi là một Pháo Đội tăng phái, nếu tôi chỉ huy thì e rằng không quen sự phối hợp hỏa lực, còn nếu để Trí chỉ huy thì kẹt tôi.

Tôi hiểu ý và thâm tâm tôi, tôi thiển nghĩ, cứu cánh của cuộc hành quân phải là sát hại tối đa địch, phá hủy tối đa các kho tàng trử quân trang dụng, bảo vệ hổ tương hiệu quả… còn vấn đề chỉ huy, tưởng cũng không nên đặt nặng làm gì trong lúc này. Nghĩ sao tôi trình bày vậy. Trung Tá Châu hài lòng lối xử sự của tôi. Ấy thế là tôi và Trí bắt tay nhau trong niềm cảm thông chân thành khơi lên bởi tình đồng đội khả ái.

Trong buổi họp, tôi gặp Đại Úy Nguyễn Văn Đương, Pháo Đội Trưởng Pháo Đội B/3 Dù. Dạo này Đương béo phệ, chững chạc như một nhà thầu khoán khác hẳn với thân hình gầy gầy của những năm trước. Đương đi Thủ Đức khóa trước tôi và quen nhau tại Plateau Gi khi Đương còn là một Sĩ quan Délo tại đấy năm 1964.

Lúc bấy giờ tôi được biết, vì Đương cương trực nên vất vả với nghiệp Délo năm canh! Đương chơi cờ tướng khá cao, nhưng tôi chưa được hân hạnh đấu cờ với Đương.

Sau 7, 8 năm xa cách, giờ gặp lại Đương, cả hai chúng tôi bở ngỡ nhìn nhau. Tuy không hề thư từ cho nhau, nhưng chúng tôi không quên nhau, vì mỗi đứa có một nét đặc biệt dễ nhận ra, nhất là những kỷ niệm sau 14 ngày hành quân, đoàn tụ về tại một địa điểm cách xa Konbrai 8 cây số ở hướng Tây Nam, cả hai chúng tôi vất vả xác định điểm đứng giữa rừng le để tìm đường ra lộ lớn về Konbrai!

Đương rất dạn, đã có lần anh gọi pháo binh 155 ly từ Konbrai tác xạ cận phòng cho Đại Đội của anh và Đại Đội tôi quy tụ trên đồi le, với khoảng cách không quá 100 thước và hướng bắn qua đầu. Sau đấy, bọn tôi đi lạc về hướng Nam Konbrai hằng 4, 5 cây số.

Vào phòng họp, Đương ngồi cạnh tôi hàn huyên đủ chuyện.

Anh bóp đầu gối trái tôi và hỏi:

– Sao? Dạo này anh còn bị Rhumatisme hành nữa không?

– Tôi chạy chữa tốn không biết bao nhiêu tiền nhưng bệnh vẫn không hết. Có điều bây giờ đã cởi bỏ được nghiệp Délo, không còn lội bộ nữa nên cũng đở hơn trước nhiều.

…Rời phòng họp, tôi siết chặt tay Đương, tiếc rẻ không được đóng chung một vị trí. Chúng tôi hứa sẽ yểm trợ hổ tương tối đa khi cần.

(còn tiếp)

TDH, 1971

Kỳ sau: VƯỢT BIÊN GIỚI

(*) Trần Vũ đánh máy lại tháng 10-2018 từ bản in của Nxb Đại Nam 1980. 

(**) Phóng đồ hành quân in trong hồi ký của Đại úy Trương Duy Hy.

(***) Là Đại úy Nguyễn Văn Đương mà Trần Thiện Thanh viết trong ca khúc Anh Không Chết Đâu Em.