
3 kỳ – kỳ 2
4
Thiên Cảnh Sơn nằm trên đảo Hòn Cò hoang sơ, gần vịnh Bái Tử Long. Thắng dặn: «Nhớ cẩn thận cái đầu vì trần thấp, cẩn thận bước chân vì đá trơn, cẩn thận bàn tay đừng vịn vào đá vì mồ hôi sẽ làm thạch nhũ trắng đổi màu.» Thế nên chúng tôi vào hang như tập yoga, vừa chậm rãi, tập trung, vừa mềm dẻo lại vừa phải vững chãi.
Chụp hình không dễ vì ngoài đoàn chúng tôi còn nhiều đoàn khác. Đầu cổ lúc nhúc, smartphone tứ bề. Dưới chân và trên vách hang toòng teng dây nhợ vì họ bắt điện để có chút ánh sáng nhưng lại không khéo che.
Thắng nói: «Rất tiếc tôi không đưa các bạn đến làng chài được vì thời gian eo hẹp. Những ngôi làng này đang ngày một thưa vắng do nghề chài lưới vất vả mà không đủ ăn vì mưa bão luôn. Con cháu dân chài bỏ làng lên tỉnh kiếm ăn hết. Rồi mai sẽ chẳng còn một ai… »
Tàu vẫn trôi đi, càng vào gần vịnh Hạ Long, nước biển càng bớt trong sạch, chai nhựa và bao ny-lông nổi lình bình. Chúng tôi vặn hỏi Thắng: «Cấm hành khách đem chai nhựa lên tàu để biển được sạch mà xem biển kìa!» Thắng đáp: «Vì bão lớn hoành hành liên tục hơn 10 ngày qua, nước cống dâng cao, rác từ thành phố tràn ra.»
Sau 2 ngày lênh đênh biển đảo, chúng tôi trở về Hà Nội. Xe chạy ngang sông Bạch Đằng và sông Hồng nước lờ lợ đỏ. Càng về gần Hà Nội, mắt tôi càng hoa lên. Hà Nội là một bức puzzle không có chỗ nào trống. Khin khít bích chương tuyên truyền và bảng hiệu của các quán hàng lẫn bảng quảng cáo viết bằng tiếng Việt chen tiếng Anh. Vừa «Nhiệt liệt chào mừng đại hội đại biểu đảng bộ» đã có ngay «Mắc bệnh vẩy nến, phải đến St. Paul.». Cạnh «Máy bơm nước tặng quà khủng» là «Tiêm chủng, sửa vá xe, sắm deal hời». Ngay sau: «Kỷ niệm 71 năm giải phóng thủ đô» là «Tào phớ, trân châu, xôi xéo, gà tần, vui lòng order». Tôi bật cười khi nhìn thấy không xa «Học viện phụ nữ Việt Nam» là «Bia Hải xồm», rồi «Sữa-Bỉm» (Bỉm = tã).

5
Ba Vì cách Hà Nội 70 cây số, tức khoảng một tiếng rưỡi ngồi xe hơi. Trên đường đi, chúng tôi nhìn thấy nhiều đàn dê băng ngang đường cái. Xe chạy ngang sông Đà và nhiều cây cầu có tên rất hay như cầu Bài Văn, cầu Đào Nguyên, cầu Đan Hoài… ngang nhiều đồng quế, nương dong, ruộng đậu phọng, trung tâm nghiên cứu bò, cơ sở đá ong, khu du lịch sinh thái v.v. và hàng hà sa số dịch vụ thương mại nối tiếp nhau như «Sữa dê bất bại», «Trâu giật – Tinh lợn» «Chườm ngải – Ngâm chân», «Trâu tươi – Gà đồi» «Cá sông – Dê núi», «Gà đẻ – Chỉ tơ» «Bún chó – Lẩu mèo», «Gội đầu – Triệt lông», «Chà gót – Uốn mi», «Cắt tóc – Lấy ráy», «Xì khô – Hút bụi», «Làm lốp – Sửa vành», Make-up, bridel, xát gạo, ép kính, tẩy la răng, đọc xóa lỗi cài đặt, tư vấn phong thủy, nấu cỗ trọn gói, cẩu tải thuê, pickleball, phục vụ team building, số sim đẹp, gội đầu dưỡng sinh, giặt là lấy ngay v.v. Tất cả đều toát ra năng lượng sống «Mạnh mẽ, quyết tâm và quyết liệt» như lời một khẩu hiệu.
Các khẩu hiệu đỏ chói kiểu «Toàn đảng, toàn dân, toàn quân chung sức» tiếp tục chia đất với các bảng quảng cáo vần điệu như «Hết đau rát, thanh mát cổ họng», «Bán lẻ rẻ như bán buôn»… Mấy người bạn Pháp thắc mắc liên tục, dịch mệt nghỉ, mà cũng không biết dịch làm sao khi gặp phải một quán tên «Chim To Dần» đang tuyển gấp nhân viên!
Sau bữa cơm trưa có nem rán bánh đa nghệ, bò quấn lá lốt, nộm hoa chuối, canh bí đỏ nấu đậu xanh, xôi nếp nương đồ lá cẩm, trà sả pha mật ong rừng, rượu nhàu… trong khu vườn rộng phủ bóng khế, bưởi, nhãn trĩu quả trên cây của cô Chín người Mường, chúng tôi đạp xe đi thăm vườn trà, xưởng nấu rượu, xưởng làm đậu phụ, đan nón lá, rèn dao v.v.
Các bạn người Pháp không ngừng ca ngợi cảnh đẹp thôn làng và tỏ ý khâm phục tính siêng năng và lòng hiếu khách của người Việt. Jaouad nhận xét: «Đàn bà Việt Nam thật giỏi! Nào cày ruộng, nấu rượu, chăn nuôi, nào chăm con, buôn bán, và làm cả… phu đổ rác. Ở Pháp, chưa thấy phu đổ rác là đàn bà bao giờ! Đàn ông Việt Nam đâu cả rồi?»
Khi đi ngang các quán nhậu treo bảng chó mẹt, mèo niêu, tôi chỉ: «Đàn ông Việt Nam kìa! Sợ chưa? Ở Pháp đố anh nào dám xơi chó, mèo!»

6
Chapa Express, được quảng cáo là tàu lửa hạng sang, rời Hà Nội lúc 10 giờ đêm để đến Lào Cai 6 giờ sáng hôm sau nhưng rút cuộc 7 rưỡi mới tới nơi vì bão. Mỗi toa có 7 buồng, mỗi buồng 4 giường, vị chi chứa được 28 người. Hai toa-lét đặt hai đầu toa. Đoàn chúng tôi 16 người, gồm 15 khách và Tự, chiếm hết 4 buồng. Ba buồng còn lại, đi ra đi vào, toàn chạm mặt Tàu. Dùng toa-lét chung với họ cần nhiều kiên nhẫn và vị tha.
Các anh Tây chân dài nằm thòi chân khỏi couchettes. Chiếc gối có vết ố vàng, tôi lấy áo khoác trùm lên để tự giúp mình làm ngơ. Đêm không êm vì gió bão hay vì tình trạng đường rầy xấu không rõ, con tàu lắc lư dữ dội, có lúc tưng tưng như thể chạy trên lò xo, có lúc bị cành cây ven đường quật mạnh lên nóc. Mãi gần 4 giờ sáng, tôi mới chợp mắt thì 6 giờ bị nhân viên gọi dậy. Họ đến gõ cửa từng buồng, chào lớn: «Good Morning!» Ngay sau đó, loa phát lớn bể lỗ nhĩ bài hát ca ngợi Lào Cai quê em. Liên tục chương trình là bản tin tuyên truyền chủ trương của Đảng và nhà nước, kêu gọi «Trí tuệ tập thể phát triển đất nước, đưa GDP lên cao hơn nữa, tiến tới xây dựng nhà máy hạt nhân, chú trọng xây dựng kỹ thuật số, khiến Việt Nam trở thành quốc gia giàu nhất nhì Châu Á… ».
Xuống tàu, Frédérique cho tôi xem vết thương trên cằm. Người nhân viên thúc giục bà phải rời tàu bằng giọng điệu và ánh mắt hung dữ khiến bà giật mình sợ hãi, va mặt vào cửa. Sau đêm ấy, chúng tôi đùa nhau: «Hễ ai hư thì phạt bằng cách thảy lên Chapa Express.»

7
Khách sạn Salapy, nơi chúng tôi ghé tắm và ăn sáng nằm sát biên giới Việt-Trung. Khác với điều chúng tôi nghĩ, công an biên giới cho dân chúng ra vào khu vực này thoải mái. Chúng tôi đến sát cột mốc. Muốn chụp hình phải chờ khá lâu vì ngoài nhiều nhóm khách du lịch còn có một đám cưới, cô dâu chú rể cùng quan viên hai họ đứng tạo dáng ngay ranh giới này. Cạnh bên có Đền Mẫu, thờ Đức Trần Hưng Đạo nhưng chẳng mấy ai màng.
Rời khách sạn lúc 9 giờ sáng, xe lăn bánh vào những đoạn đường lầy, bên trái là đồi núi tỉnh Vân Nam, thuộc Trung Quốc, nghe đâu diện tích bằng cả nước Việt Nam.
Xe chạy ngang ruộng nương, ngang phố phường. Đa số nhà dân lợp mái tôn, vách nhôm, cửa xếp. Thỉnh thoảng mới có vài nhà gạch, cổng sắt, mái ngói mới xây. Vách núi đỏ, lá bàng xanh, hoa trang đỏ, bông giấy, dâm bụt, trâm ổi, cau, keo, đa, sắn, ngô, môn, xoài, mít, chuối, muôn vàn dây leo cùng cây lá dại, và lúa. Tắt đường ngay thôn Bản Lọt. Dấu vết bão. Đất sạt lở. Cành to gãy đổ. Càng ra xa càng thêm cây xanh, bớt cờ đỏ sao vàng. Qua khỏi cầu A Dõng, đang buồn ngủ thì tôi nghe anh cười phì, trỏ tay chỉ tấm bảng ghi: «Ở đây cho thuê lợn đực đẹp»
Ngang thôn Cổ Rễ Chài, qua khỏi thác Bản Zai, xe dừng để mọi người xuống duỗi chân. Bên lưng núi, một chàng trai người Dao đỏ nằm lim dim bên con gà chọi. Bị làm ồn nhưng anh chàng vẫn ngồi dậy vui vẻ cho mượn con gà để chúng tôi chụp hình cho ra vẻ chân quê. Tôi trêu: «Ngủ ngày, sướng nhỉ?» Anh ta bẽn lẽn: «Con đi phơi ngô. Trong lúc chờ ngô khô, chả biết làm gì!» «Thế phơi ngô làm gì?» «Để làm mèn mén, còn thì cho gà ăn.» Tìm hiểu về mèn mén, tôi thấy món này giống bánh bột bắp Polenta của người Ý, ăn thay cơm và bánh mì.

Khi chúng tôi đến Bắc Hà thì chợ trâu đã vãn. Chỉ còn vài người H’mông Hoa, người Dao, người Tày, người Phù Lá… ngồi lê, cố bán chó, heo, gà, ngan, ngỗng…
Sau bữa cơm có rượu ngô men lá, chúng tôi nghỉ đêm trong ngôi nhà lớn của hai anh em người Nùng. Gian nhà đầy ắp hoa bí vàng quấn quít ao cá, quả hồng chín cây, hoa chuối tím căng bắp, hoa đu đủ trắng chi chít trên cây và những lu rượu ủ trong bếp.
Sáng sớm hôm sau, Tự đưa chúng tôi ra chợ phiên Bắc Hà, nơi buôn bán tấp nập nhất vùng Tây Bắc. Ngay cổng chợ, tôi cúi xuống bên một bà cụ mặc áo dài tới gối, thêu hoa đỏ, vàng, quần ống đen bó sát, đầu đội khăn tím, có tua rua, chân đi dép tổ ong trắng. Tôi hỏi bà bán gì, bà đáp: «Bánh chưng đen đấy. Cô ăn thử đi, ăn với đậu nhự này. Cả chợ họ làm thế.» Bà mở nắp hũ cho tôi xem đậu nhự. Biết mình không thể nấn ná làm chậm chân đoàn nên tôi không hỏi thêm. Nhưng tôi nhớ ngày xưa, bà ngoại tôi có nhắc đậu nhự. Đó chính là chao. Còn bánh chưng đen là bánh chưng được nhuộm bằng một loại tro để tạo màu sắc và hương vị khác đi so với bánh chưng xanh gói lá dong. Hình dạng không vuông mà gói thành đòn, u u, gù gù.
Vào sâu trong chợ, tôi bắt gặp nhiều thứ đã biết như ớt, quế, hồi, sả, bồ kết… cùng hằng hà sa số hoa củ quả mới nhìn thấy lần đầu như hạt dổi, nghệ đen, gừng gió, củ mài, củ rày, củ dòm, rễ đinh lăng, nấm lim, táo mèo, na rừng, me rừng, v.v… Mấy người bạn Pháp le lưỡi khi nhìn thấy gà đen còn nguyên móng giơ chân chỉ thiên bên đầu dê nhe răng, tai lợn, đuôi bò, lòng ngựa tươi sống, trứng gà non và tinh hoàn con gì chả biết, từng chùm, từng hòn bày ra nhan nhản… Không ai dám ăn thử Nậm bò, Thắng Cố, trừ anh.

(còn tiếp)








