Đến một nhà vườn, bạn có thể thấy cây được chia thành các khu riêng biệt cho “annuals” và “perennials, biennials”. Những từ ngữ này ta nên chú ý bởi vì được sử dụng để phân loại tuổi thọ của các loại cây. 

Annuals

Được gọi là “annuals” (từ tiếng Latinh:  annus = năm) vì những cây này hoàn thành chu kỳ cuộc sống của chúng trong một năm, năm tới phải bắt đầu từ hạt giống hoặc từ cành cắt. Nên mua annuals vào gần đầu mùa trồng cây, lúc băng giá không còn. Một số cây thuộc loại annuals: marigolds, larkspur, nasturtium, cosmos, strawflowers và zinnias.

iStock/Thinkstock  

Perennials

Perennials (per = qua) là những cây sống ít nhất ba năm nếu không bị động vật hoang dã hay thời tiết khắc nghiệt làm chết. Mỗi năm cây sẽ mọc lại từ rễ, mặc dầu lá có thể đã khô héo khi mặt đất bị đóng băng.

Perennials có thể được bán thường cả vào những thời gian ngoài thời vụ, sau cả mùa thích hợp để trồng. Một số cây thuộc loại: purple coneflowers, coreopsis, Black-eyed Susans, sedum, daylilies, asters, astilbe, phlox và goldenrod.

Một số cây khác được gọi là  “evergreen perennials” (vạn niên thanh) suốt mùa Đông lá vẫn không rụng: hellebores, yucca, candytuft, lavender, English ivy, pachysandra và coral bells.

George Weigel

Biennials

Biennials (bi = hai) là loại thứ ba ít được biết tới, có chu kỳ sống hai năm. Loại này mọc lá, thân và rễ vào năm đầu, rồi ngủ vùi suốt mùa Đông. Đến năm thứ hai, cây trổ hoa, sinh hạt trước khi chết.

Một số cây biennials như sweet william, foxglove, money plant và hollyhock, thường được bán chung với perennials.

faddegons.com